Lược sử các giáo phận Việt Nam : Tổng Giáo Phận Hà Nội

Tổng Giáo phận Hà Nội vào năm 2019

Diện tích khoảng 6.688 km2

Số dân khoảng 11 triệu người

Số tín hữu khoảng 320.000 người

Số giáo xứ: 161

Số giáo hạt: 6

Số linh mục trong linh mục đoàn: 162

Số linh mục dòng: 16

A. Lược Sử Tổng Giáo Phận Hà Nội

Lịch sử của Tổng Giáo Phận Hà Nội đã trải qua gần 400 năm hình thành và phát triển. Trong đó các thừa sai dòng Tên, Hội Thừa Sai Paris cùng với hàng giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Việt Nam, nhờ ơn Chúa, đã đóng góp hết mình để làm nên trang sử của Tổng Giáo Phận và tô đậm dòng lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Quá trình lịch sử này được tóm gọn theo ba thời kỳ: thời kỳ giáo sĩ dòng Tên, thời kỳ Hội Thừa Sai Paris (MEP) và thời kỳ nằm dưới triều vua Lê – chúa Trịnh, triều Nguyễn, thời Pháp thuộc cho đến khi đất nước độc lập, thống nhất.

1. Thời các giáo sĩ dòng Tên (1626-1663, vua Lê – chúa Trịnh)

Năm 1626, cha Giuliano Baldinotti, người Ý, và thầy Piani, người Nhật, là hai thừa sai đầu tiên được cử tới Kẻ Chợ (Thăng Long), hai vị được chúa Trịnh Tráng đón tiếp cách đặc biệt và cho tự do truyền giáo vì lúc đó nhà chúa đang cần vũ khí của người nước ngoài để chống lại chúa Nguyễn ở Ðàng Trong. Hai vị không biết tiếng (phải nói qua thông dịch hay bút đàm), nên cha Baldinotti liều viết thư xin các cha dòng Tên ở Ðàng Trong ra trợ giúp. Sự việc này khiến chúa Trịnh nghi ngờ và tạo dịp cho một số quan lại chống đối. Sau 5 tháng tại Thăng Long, hai vị rửa tội được bốn trẻ nhỏ hấp hối. Phái đoàn rời Thăng Long và về tới Macao ngày 16-9-1626 (x. Ðắc Lộ, Lịch sử Vương quốc Ðàng Ngoài).

Như được chuẩn bị từ trước, cha Giám tỉnh dòng Tên cử hai cha Marques (đến Ðàng Trong từ năm 1618) và cha Alexandre de Rhodes (Ðắc Lộ) (đến Ðàng Trong từ năm 1624), từ Ðàng Trong về Macao năm 1626, để chuẩn bị vào Ðàng Ngoài. Ngày 12-3-1627, từ Macao cha Marques và Ðắc Lộ lên đường và tới Cửa Bạng (Thanh Hóa) ngày 19-3-1627.

Sau vài ngày rao giảng Tin Mừng tại Cửa Bạng, có 2 người xin tòng giáo mang tên Thánh Giuse và Inhaxiô. Trong 2 tuần đợi lệnh chúa Trịnh cho phép tàu lên Kẻ Chợ, hai cha rửa tội tất cả được 32 người. Ðoàn truyền giáo được chúa Trịnh tiếp đón nồng hậu khi chúa đang trên đường đi đánh chúa Nguyễn Phúc Nguyên ở Ðàng Trong. Sau khi chúa Trịnh thất trận trở về, phái đoàn được chúa đưa về Thăng Long. Hai cha được hưởng nhiều ân huệ và được cấp nhà ở trong phủ chúa; nhưng để tiện dịp tiếp xúc với dân chúng, hai cha xin đến ở vùng Cầu Giền. Tại đây, hai cha bắt đầu mở lớp dạy giáo lý, mỗi khóa 8 ngày, mỗi ngày 6 lớp. Chính từ những buổi dạy này đã khởi thảo tập “Phép Giảng Tám Ngày” được cha Ðắc Lộ cho in ở Rôma bằng hai thứ tiếng La tinh và Việt Nam vào năm 1651. Kết quả thật bất ngờ: chính em gái chúa Trịnh là bà Catarina và hàng ngàn người được rửa tội. Tổ chức Thầy Giảng cũng được cha Ðắc Lộ thành lập. Công việc rao giảng Tin Mừng đang tiến triển, thì chúa Trịnh nghe lời xúi giục của phe chống đối (tham quan, hoạn quan, phi tần, cung nữ…) trục xuất hai cha về Macao. Trong thời gian 3 năm, tại Ðàng Ngoài, hai cha đã rửa tội được 5, 602 người.

Tiếp nối công việc của cha Marques và Ðắc Lộ, ngày 15-3-1631, các thừa sai dòng Tên lần lượt có mặt tại Kẻ Chợ và được chúa Trịnh tiếp đón nồng hậu cùng cho phép tự do giảng đạo vì chúa cần sự có mặt của các thừa sai để buôn bán với người Bồ Ðào Nha về nhiều mặt hàng, nhất là vũ khí, đạn dược. Từ năm 1631-1663, giáo đoàn Ðàng Ngoài được nhiều giáo sĩ dòng Tên đến giúp, trong đó có các cha Gaspar d’Amaral (1631-1638), cha Felice Morelli (1636-1647), cha Filippo Giovani de Marini (1647-1658), cha Onofrio Borgès (1642-1663).

2. Thời kỳ Hội Thừa Sai Paris (MEP) (Nhà Trịnh, Nhà Nguyễn, và Pháp thuộc)

Ngày 9-9-1659, Tòa Thánh thành lập hai giáo phận ở Việt Nam: Ðàng Trong và Ðàng Ngoài, bổ nhiệm Ðức Cha Francois Pallu làm đại diện Tông Tòa Ðàng Ngoài (1659-1679). Suốt thời gian làm đại diện Tông Tòa, Ðức Cha Pallu nhiều lần muốn tới Ðàng Ngoài để nhận nhiệm sở, nhưng đều bị cản trở, nên ngài nhờ Ðức Cha P. Lambert de la Motte giám quản giùm và đặt cha F. Deydier Phan làm cha chính (tổng đại diện) giáo phận. Ðến năm 1679, Tòa Thánh bổ nhiệm ngài làm giám mục giáo phận Phúc Kiến (Trung Quốc). Ngày 27-1-1684, Ðức cha lên đường nhận nhiệm sở và 9 tháng sau ngài qua đời tại đây.

Ngày 18-8-1666, cha Deydier có mặt tại Thăng long để thực thi sứ mệnh truyền giáo. Năm 1669, Ðức cha Lambert de la Motte tới Phố Hiến. Ðầu năm 1670 ngài truyền chức “nhỏ” cho 48 thầy, chủ trì Công đồng đầu tiên ở Phố Hiến, lập dòng Mến Thánh Giá tại Kiên Lao và Bái Vàng.

Năm 1679, giáo phận Ðàng Ngoài được chia làm hai: Tây Ðàng Ngoài trao cho Hội Thừa Sai Paris, do Ðức cha Jacques de Bourges (1679-1714) coi sóc. Năm 1713, Ðức cha Bourges bị trục xuất. Ngài qua Thái Lan và mất ở đây năm 1714, thọ 83 tuổi.

Giáo phận Tây Ðàng Ngoài năm 1753 gồm: Bố Chính 10, 000 giáo dân, Nghệ An 42, 500, Thanh Hóa 24, 039, Tây Nam (Trấn Sơn Nam) 45, 188, Miền Tây (Trấn Sơn Tây) 7, 000, Kẻ Chợ 3, 000 gồm hai huyện Vĩnh Xương và Quảng Ðức, mỗi huyện 18 phường, làm thành “36 phố phường” tổng cộng 131, 727 giáo dân.

Dưới triều Nguyễn (1789-1883)

Ðức cha J.B. Longer Gia (Giám mục hiệu tòa Gortyna) cai quản giáo phận Tây Ðàng Ngoài từ năm 1790-1831. Năm 1802, khi vua Gia Long ra Thăng Long, ngài đã tới yết kiến và nhắc tới mối liên hệ giữa Ðức cha Pigneau de Béhaine (Bá Ða Lộc) và nhà vua. Nhà vua hứa cho tự do tôn giáo, nhưng thật ra không được thi hành trong các địa phương. Tình hình giáo phận năm 1830 được biết như sau: 2 giám mục, 6 thừa sai, 87 linh mục bản xứ, 174, 000 giáo dân, 50 giáo xứ, 1 đại chủng viện, 20 đại chủng sinh, 2 tiểu chủng viện, 60 tiểu chủng sinh, 595 người lớn được rửa tội, 1, 886 trẻ em được rửa tội. Ðức cha Longer mất năm 1831.

Ðức cha J.M. Havard Giu (giám mục hiệu tòa Castorie 1790-1838), trong đời ngài có cha Cornay chết vì đạo năm 1837, còn ngài thì mất năm 1838.

Ðức cha Pierre Borie Cao (giám mục hiệu tòa Acanthe) được bổ nhiệm giám mục năm 1838 và tử đạo ngay năm đó. Chiếu chỉ cấm đạo ngày 18-1-1839 của vua Minh Mạng đã khiến cho nhiều tín hữu ở Ðàng Ngoài bị bách hại và nhiều người chết vì đạo.

Ðức cha P.A. Retord Liêu (giám mục hiệu tòa Acanthe 1840-1858). Ðời ngài là một chuỗi những gian truân, đi ẩn trốn liên tục. Sau khi vua Minh Mạng ngã ngựa băng hà ngày 20-1-1841, Ðức cha đã có thể truyền giáo công khai vào những năm 1843-1847. Nhưng khi người Pháp bắn phá Cửa Hàn vào tháng 3-1847, vua Thiệu Trị nổi giận, đã ra sắc chỉ cấm đạo tháng 4-1847. Nhưng sau đó nhà vua băng hà ngày 4-11-1847.

Ngày 27-3-1846, Ðức Gregorius XVI chia đôi giáo phận, một giữ tên giáo phận Tây, một mang tên mới giáo phận Nam Ðàng Ngoài (Vinh) gồm: Bố Chính và Nghệ An, Hà Tĩnh; giáo phận Tây vẫn rộng lớn.

Dưới thời Tự Ðức, Ðức Cha C.H. Jeantet Khiêm (1847-1866) cai quản giáo phận. Vua Tự Ðức cấm đạo gắt gao với 6 sắc chỉ từ 1848-1862 và chỉ cho phép giữ đạo sau hòa ước Nhâm Tuất (1862). Giáo phận đã trải qua cơn khủng bố khốc liệt của những người theo phong trào Văn Thân với khẩu hiệu “Bình Tây sát Tả” cho tới năm 1888.

Ðức cha J.S. Theurel Chiêu (giám mục hiệu tòa Acanthe 1858-1868). Theo bản tường trình, lúc này trong giáo phận có chừng 39 giáo xứ, 140, 000 giáo dân.

Dưới thời bảo hộ Pháp (1883-1945)

Ðức cha P.F. Puginier Phước (giám mục hiệu tòa Mauricaastre 1868-1892) là người giao thời, ngài đã được mời làm trung gian hòa giải, nhưng sự việc không thành. Người Pháp đã đặt nền đô hộ trên đất nước ta.

Năm 1895, Tòa Thánh phân chia giáo phận Tây thành hai giáo phận, một giữ tên cũ giáo phận Tây, giáo phận mới lấy tên gọi là giáo phận Ðoài (Hưng Hóa).

Năm 1901, Ðức Lêô XIII lại chia giáo phận Tây Ðàng Ngoài thành 2 giáo phận. Giáo phận mới mang tên giáo phận Thanh (sau là Phát Diệm). Ngày 3-12-1924, Tòa Thánh đổi tên các giáo phận tông tòa ở Việt Nam theo địa hạt hành chính, nơi đặt tòa giám mục, vì thế giáo phận Tây Ðàng Ngoài được đổi thành giáo phận Hà Nội.

Ðức cha P.M. Gendreau Ðông (giám mục hiệu tòa Chrysopolis) cai quản giáo phận từ 1887-1934. Không kể việc điều tra và thiết lập các hồ sơ tử đạo, ngài đã làm nhiều việc xã hội và thiết lập các tổ chức giáo dục và đào tạo giáo dân cũng như giáo sĩ. Năm 1935, khai mạc Công đồng Ðông Dương.

Thời kỳ Ðức cha F. Chaize Thịnh (giám mục hiệu tòa Alabanda 1925-1949), Công đồng Ðông Dương 1935 đã mở đường cho việc mở mang dân trí, phát triển các tổ chức giáo dục và đào tạo cũng như việc xã hội từ thiện. Năm 1937, mở câu lạc bộ nghiên cứu xã hội, cho phát triển ngành Công Giáo Tiến hành. Theo bản phúc trình năm 1930, trong giáo phận có: 27 thừa sai, 143 linh mục Việt Nam phục vụ trong 88 giáo xứ, 400 thầy giảng, khoảng 400 nữ tu, trong đó có dòng Mến Thánh Giá, dòng Kín Carmel Hà Nội, dòng Sư Huynh La San với 700 học sinh, dòng Ða Minh Pháp, dòng Ðức Bà.

Năm 1948, giáo phận có khoảng hai triệu dân, giáo dân khoảng 195, 000 người, 30 thừa sai, 135 linh mục, 95 tu sĩ, 491 nữ tu. Ðại Chủng Viện Xuân Bích đóng cửa sau biến cố ngày 19-12-1946, được mở lại vào năm 1948.

3. Thời kỳ Hàng Giáo Phẩm Việt Nam

Tại Phát Diệm, Bùi Chu và Vĩnh Long đã có giám mục Việt Nam, nhưng giáo phận Hà Nội vẫn thuộc Hội Thừa Sai.

Năm 1950, Ðức cha Giuse Maria Trịnh Như Khuê được bổ nhiệm làm giám mục Hà Nội, trong thời kỳ đất nước trải qua nhiều biến cố lớn: sự kiện tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, cuộc di cư vào Nam năm 1954. Ðức cha đã có Thư Chung nhắn nhủ giáo dân và rao giảng tình yêu thương đồng bào.

Ngày 24-11-1960, Tòa Thánh quyết định thành lập Hàng Giáo Phẩm Việt Nam, nâng giáo phận tông tòa lên hàng chính tòa, giáo phận Hà Nội được nâng lên hàng Tổng giáo phận và đặt Ðức cha Giuse Trịnh Như Khuê làm tổng giám mục. Ngày 24-5-1976, ngài được phong làm Hồng Y tiên khởi của Việt Nam.

Ngày 2-6-1963, Tòa Thánh bổ nhiệm Ðức cha Giuse Maria Trịnh Văn Căn làm phó tổng giám giám mục Hà Nội. Sau khi Ðức Hồng Y Khuê qua đời, ngài trở thành Tổng giám mục chính tòa. Ngày 30-6-1979, Ðức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Tổng giám mục Giuse Trịnh Văn Căn làm Hồng Y, linh mục F.X. Nguyễn Văn Sang làm Giám Mục Phụ Tá. Ngày 16-11-1985, Ðức Hồng Y ký thỉnh nguyện xin tuyên thánh cho 117 chân phước tử đạo Việt Nam và được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II chấp thuận.

Ngày 18-5-1990, Ðức Hồng Y Trịnh Văn Căn từ trần sau một cơ bạo bệnh. Ngày 23-4-1994, Ðức Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức cha Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng làm tổng giám mục Hà Nội và linh mục tổng đại diện Phaolô Lê Ðắc Trọng làm Giám Mục Phụ Tá.

Ngày 26-11-1994, Tòa Thánh phong Hồng Y cho Ðức tổng giám mục Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng tại Rôma. Ngài được các giám mục bầu làm Chủ tịch Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam trong đại hội lần VI ở Hà Nội, từ ngày 25-9 đến 1-10-1995. Ngài đã tích cực củng cố Ðại Chủng Viện Thánh Giuse Hà Nội và đời sống đức tin của giáo dân.

Thứ Bảy ngày 26 tháng 4 năm 2003, ÐTC Gioan Phaolô II bổ nhiệm Ðức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt, làm Giám Quản Tông Tòa (Administrateur Apostolique Sede Plena) Tổng Giáo Phận Hà Nội. Ðức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng, Tổng Giám Mục Hà Nội, vào lúc này (năm 2003) đã 84 tuổi, trước đây đã nhiều lần xin phép về hưu (Theo giáo luật 75 tuổi là có thể xin phép về hưu), sau nhiều lần Tòa Thánh đã gửi phái đoàn qua Việt Nam thương thuyết với nhà cầm quyền Hà Nội để có một vị Tổng Giám Mục kế vị Ðức Hồng Y Tụng, nhưng vẫn không có kết quả. Bởi vậy, vì lý do sức khỏe với tuổi già yếu của Ðức Hồng Y, ngày 26/04/2003, Tòa Thánh đã bổ nhiệm Ðức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt làm Giám Quản Tông Tòa (Administrateur Apostolique Sede Plena) Tổng Giáo Phận Hà Nội.

Ngày 19 tháng 2 năm 2005, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã bổ nhiệm Ðức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt làm tổng giám mục chính tòa giáo phận Hà nội, thay thế Ðức Hồng Y Phạm Ðình Tụng, và chính thức chấp thuận đơn xin nghỉ hưu của Ðức Hồng Y Phaolô Giuse Phạm Ðình Tụng.

Ngày 22 tháng 4 năm 2010, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã bổ nhiệm Đức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn làm Tổng Giám mục phó Tổng Giáo phận Hà Nội và ngày 13 tháng 5 năm 2010, Ngài được đặt làm Tổng Giám mục chính tòa Tổng Giáo Phận Hà Nội sau khi Đức TGM Giuse Ngô Quang Kiệt nghỉ hưu để dưỡng bệnh.

B. Ðịa Lý và Dân Số Tổng Giáo Phận Hà Nội

Ranh giới: Tổng Giáo Phận Hà Nội phần lớn nằm trên địa bàn thành phố Hà Nội (trừ một số huyện thuộc giáo phận Bắc Ninh) và và một phần trên địa bàn 4 tỉnh: Hà Tây (trong 9 huyện, trừ một số huyện thuộc giáo phận Hưng Hóa); Hà Nam; Nam Ðịnh (nửa thành phố Nam Ðịnh, huyện Mỹ Lộc, huyện Vụ Bản, huyện Ý Yên thuộc Tổng Giáo Phận Hà Nội); Hòa Bình có 8 giáo xứ trong 4 huyện; Hải Hưng chỉ có một xứ thuộc huyện Kim Thi.

Diện tích: Tổng Giáo Phận Hà Nội có diện tích khoảng 7, 000 km2.

Sông, hồ, núi: Nội thành, phía Bắc và Tây, có sông Tô Lịch bao bọc, giữa trung tâm thành phố có hồ Hoàn Kiếm. Phía Nam có sông Kim Ngưu, các hồ Quỳnh Lôi, Ðầm Sét, hồ Bảy Mẫu, hồ Thiên Quang. Phía Ðông là sông Hồng dài 1, 165 km và sông Luống (Ðuống). Phía Bắc có sông Cà Lỗ, hồ Trúc Bạch, hồ Tây.

Hà Nội có 5 ngọn núi lớn: Núi Vua Bà (Viện Nam), Tản Viên, Tam Ðảo, Phao Sơn, Yên Tử.

Sắc tộc: phần lớn là người Kinh, ngoài ra còn có người Mường, Dao, Sán Dìu… khoảng 8, 000 người.

Tổng Giáo phận Hà Nội vào năm 2014 gồm 5 giáo hạt: Chính Tòa, Phú Xuyên, Thanh Oai, Hà Nam và Nam Định. Tính đến năm 2009, Tổng Giáo Phận Hà Nội theo thống kê có 337.000 giáo dân trong tổng số dân 6.448.837. Hiện nay Tổng Giáo Phận Hà Nội có 119 linh mục triều và 7 linh mục dòng, 341 tu sỹ và 1200 giáo lý viên phục vụ tại 144 giáo xứ.

Ghi chú:

1. X. Hồng Nhuệ Nguyễn Khắc Xuyên, Lịch sử Địa phận Hà Nội 1626 -1954, Paris 1994

2. X. Niên Giám của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam, năm 2005

BBT WTGP HN