Suy niệm tuần I Thường niên A

Thứ Hai Tuần I Tn
Chúa Giêsu chịu phép rửa
Đức Giêsu xin Gioan làm phép rửa cho mình, thật sự ngài không cần bất cứ phép rửa thống hối nào, nhưng vì để mọi sự được thực hiện và để mầu Nhiệm Ba Ngôi được mạc khải. Gioan mời gọi dân chúng chuẩn bị cho Đấng Messia sắp đến. Gioan nhận biết và đón nhận mầu nhiệm Thiên Chúa, Cha Con và Thánh Thần. Gioan thấy Chúa Con, Ngôi Lời vĩnh cửu của Thiên Chúa và đã chỉ cho mọi người biết ngài là Đấng Cứu Thế. Ông đã nghe tiếng Chúa Cha mà không ai có thể thấy được, minh chứng rằng đây đích thực là Con của Người. Rồi ông thấy sự hiện diện của Thánh Thần đấng ngự trên mặt nước, nguồn mạch mọi sự sống (St 1,2). Và Thánh Thần ngự xuống trên Đức Maria, sinh ra trong lòng mẹ sự sống nhân tính và thiên tính (Lc 1,35). Thánh Thần xuống trên các tông đồ để họ làm cho trái đất nên màu mỡ và sự sống vĩnh cửu (Cv 2,4). Chúng ta được rửa ‘nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần’ (Mt 28,19). Và theo lời hứa, Ba Ngôi Thiên Chúa cư ngụ trong lòng chúng ta (Ga 14,23). Ngài biến đổi cuộc sống chúng ta, phó thác đời sống ta cho Thiên Chúa và lôi kéo ta về với Người bằng sức mạnh của sự sống lại.
+++
Lạy Chúa Giêsu, tại sao Người đến quá chậm trễ như vậy trong lịch sử loài người? Biết bao tỉ con người đã sống trước khi biết điều mà Người đến dạy dỗ, trước khi biết rằng họ được yêu thương? Đây là giáo huấn thường xuyên của Giáo hội: mỗi người đều được kêu mời hưởng ơn cứu độ và được thánh hóa. Nhưng, vì biết rằng mỗi người có thể đón nhận ơn cứu độ ấy nhờ trung thành với lương tâm ngay thẳng của mình, nên thêm vào lời loan báo của các vị truyền giáo tôi còn bị đòi hỏi phải thêm điều gì riênng tư nữa. Điều độc đáo của họ là biết rằng mỗi người chúng ta đuợc yêu thương, được Chúa Cha yêu thương. Ta ý thức thật sự rằng Đức Giêsu trong tin mừng, khi nói với những người đơn sơ mà Người gặp trên đường: ‘Hãy theo Ta’, Người cũng nói với mỗi người tín hữu, chứ không chỉ riêng những ai được kêu gọi trong thiên chức linh mục hay trong ơn gọi sống đời thánh hiến. Mỗi tín hữu được Đức Giêsu kêu gọi để cùng với Người trở nên kẻ loan báo tin mừng; cung cách của Người như nói lên điều này: ‘Bạn được yêu thương, tất cả các bạn được yêu thương’. Và đó là phận vụ Chúa trao cho mỗi tín hữu, để mỗi người nên tông đồ và được sai đi thông truyền niềm vui tin mừng. Thường thì chính niềm vui này thúc đẩy mỗi người tiếp tục hành trình của mình với niềm hy vọng, ngang qua những đau khổ và nước mắt, những lần bị hiểu lầm và khước từ trong cuộc đời.
Thứ Ba Tuần I Tn
Đức Giêsu giảng dạy…Người giảng dạy như Đấng có uy quyền.
Tất cả chúng ta ngay từ lúc bắt đầu tin vào Người, ngay lúc có thói quen sống trong niềm vui mà đức tin mang lại, trong niềm tin chắc rằng mình không cô độc trên con đường mang lại no thỏa cho người đói khát, tất cả chúng ta phải là ‘lời’ của Người. Những lời của Đức Giêsu được củng cố bằng những phép lạ và trong lịch sử không có nhiều người được đặc ân này đâu. Nhưng khi ta mang lời của Đức Giêsu đến giữa anh em mình, ta phải xuất hiện như những tín hữu đáng tin (dù đã là tín hữu); để đáng tin, cần phải thể hiện niềm tin của mình không nhằm thỏa đáp mọi vấn nạn. Ngay chính chúng ta, cũng có lúc thưa với Chúa: ‘Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con’? Những lúc mà như trên môi miệng của Gióp, thốt ra những câu hỏi, những vấn nạn, đôi lúc có cả cám dỗ nguyền rủa nữa vì sự đau khổ quá sức chịu đựng…Nhưng chúng ta phải là những người làm chứng rằng, người tín hữu cũng chịu những đau khổ, đôi lúc còn nhiều và nặng nề hơn nữa, những đau khổ mà con người phải chịu. Với đôi mắt và con tim rộng mở từ đau khổ mầu nhiệm đó ta cần phải chứng tỏ mình luôn là kẻ tin! Luôn là kẻ tin ngay khi mọi người hình như chối từ Đấng Hằng Hữu là tình yêu. Để là kẻ tin, không phải chỉ cần có lời nói mà thôi mà còn cung cách sống của mình nữa, hành động của mình, cách thức ta phản ứng trước đau khổ quanh ta. Chỉ có lời nói của người có khả năng  đón nhận mọi nguy hiểm để giúp đỡ tha nhân đang đau khổ, chỉ có lời nói của người ấy mới đáng tin.
+++
Kinh Thánh trình bày cho ta hai bình diện của Đức Giêsu, nhân tính và thiên tính. Ngay thời đầu của Giáo Hội người ta nhấn mạnh bình diện thần linh; sau vài thế kỷ, cùng với lạc giáo Ariô, người ta bắt đầu đề cao nhân tính bằng cách chối bỏ thiên tính của Đức Kitô. Giáo hội không thể duy trì tình trạng mất quân bình này nên đã nhấn mạnh trên hai bản tính trong một ngôi vị, ngôi Con duy nhất của Thiên Chúa. Thư gửi tín hữu do thái nhấn mạnh đến hai bình diện và đoạn trích đọc hôm nay nói về bình diện nhân tính: ‘Phàm nhân là chi mà Chúa cần nhớ đến? Chúa đã làm cho con người thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, ban vinh quang, danh dự làm mũ triều thiên, đặt muôn loài, muôn sự dưới chân con người, bắt chúng phải phục quyền con người’.
Đức Giêsu là con người lý tưởng, nơi ngài ơn gọi của con người làm chủ vũ trụ được thực hiện cách toàn vẹn.  Trong trình thuật sáng tạo ta đọc thấy Thiên Chúa đã đặt con người làm chủ mọi tạo vật, nhưng trong tình trạng hiện nay của mọi sự, ơn gọi này không thể được thực hiện cách hoàn toàn. Chỉ duy Đức Kitô, bằng cái chết và sự sống lại, đã nhận một nhân tính đổi mới và có thể làm chủ trên mọi tạo thành.
Trong bài tin mừng ta thấy Đức Giêsu ngay lúc khởi đầu sứ vụ rao giảng đã chứng tỏ quyền năng của mình, làm cho dân chúng sửng sốt. thánh Mátcô thuật lại theo cách riêng của mình: ngài nhìn các sự việc như chúng đang xảy ra trước mắt ngài và tất cả xảy ra ngay lập tức: lập tức, ngày sabát Đức Giêsu vào hội đường, lập tức có một người bị thần ô uế nhập la lên, lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi…Trong đoạn này thánh Mátcô nêu bật hai nét quan trọng về sứ vụ của Đức Giêsu. Điều thứ nhất là: ‘Ngài dạy dỗ như đấng có uy quyền chứ không như các luật sĩ, các kinh sư là những người nại vào uy thế của Sách Thánh bằng cách nói rằng: Trong Sách Thánh đã viết thế này, hoặc dựa vào một vị thầy hoặc vào truyền thống. Đức Giêsu dạy bằng uy quyền của mình: là Con Thiên Chúa, ngài nói như một vị thầy dạy. Điều này rõ ràng trong bài giảng trên núi: ‘Các ngươi đã nghe người xưa bảo rằng….còn ta, ta bảo…’ và đức Giêsu ban một giới răn khác, hoàn hảo hơn.
Điều thứ hai đánh động dân chúng là đối diện với Đức Giêsu, các thần ô uế cảm thấy bị nguy hiểm nên cố gắng vùng vẫy và lẫn trốn: ‘một người bị thần ô uế nhập, la lên rằng: Ông Giêsu Nagiarét, chuyện chúng tôi can gì đến ông mà ông đến tiêu diệt chúng tôi? Đối diện với Đức Giêsu không thể lẫn trốn, Đức Giêsu quát mắng nó: ‘Câm đi, hãy xuất khỏi người này! Ngài không chỉ có quyền trong việc giảng dạy mà còn có quyền trên các thần ô uế, và dân chúng bàn tán: ‘Thế nghĩa là gì?’.
Hãy cầu xin Chúa Giêsu tỏ mình cho chúng ta với hai uy quyền ấy. Ta xin ngài tỏ cho ta hiểu biết giáo lý của ngài hơn, mở lòng ta như hai môn đệ trên đường Emmaus hiểu ý nghĩa những lời Kinh thánh, và lột trần nơi ta những gì là xấu xa. Phép thanh tẩy giải thoát ta khỏi thần dữ, thế nhưng chắc chắn trong ta vẫn còn nhiều điều xấu: thần ganh tị, thần kiêu căng, thần ích kỷ…Ta cần nhờ Đức Giêsu xua đuổi chúng khỏi lòng ta, giải thoát ta khỏi sự dữ.
Thứ Tư Tuần I Tn
Đức Giêsu thức dậy từ sáng sớm. Người đến một nơi thanh vắng để cầu nguyện. Các tông đồ tìm kiếm Người, khi gặp rồi Người nói với các ông: ‘Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó’.
Người đến để loan báo tin mừng nhưng lúc này, Người ra đi không phải để đến giữa đám đông dân chúng. Khi trời còn đang tối, Người đi tìm một nơi thanh vắng. Tin mừng viết: ‘Người cầu nguyện ở đó’. Thật đáng buồn có biết bao lần lời cầu nguyện được hiểu như là một lời cầu xin. Đối với đa số, khi nói đến cầu nguyện người ta nghĩ ngay đến cầu xin.
Đây là giây phút quyết định trong cuộc đời chúng ta khi ta hiểu rằng cầu nguyện trước tiên là việc thờ lạy. Nó được ví như những tấm pin mặt trời chỉ sản xuất ra năng lượng khi được đặt ra chỗ ánh sáng. Cầu nguyện trước tiên là thờ lạy, niềm vui này ta diễn tả bằng ngôn ngữ của tình yêu: ‘Chúng con cảm tạ Chúa’. Cảm tạ vì cái gì? Vì ơn huệ nào? Trong kinh Vinh danh: ‘Chúng con cảm tạ Chúa vì vinh quang cao cả Chúa’. Có chút gì đó giống như đứa bé sà vào lòng mẹ và âu yếm thưa: Má ơi, cám ơn Má, vì Má là Má của con! Cầu nguyện là sự tôn thờ thinh lặng đó; không cần nhiều lời.
Sự thờ lạy đó chắc chắn không tránh khỏi những lo lắng, vì chính vì đó mà chúng ta cần sự trợ giúp của Thiên Chúa. Làm sao ta có thể ở trong sự thờ lạy Chúa theo cách đó, nếu cùng lúc ta không bị thương tích, lo lắng bởi đủ thứ đau khổ vây quanh ta, hãy dâng cho Người những cố gắng thi hành những nhiệm vụ mà mình được mời gọi, những giải thoát mà ta đang cần, ta cũng như bao nhiêu người quanh ta?
Việc thờ lạy được diễn tả bằng lời nhưng đồng thời cũng bằng thinh lặng. Là một thinh lặng tràn đầy, mang theo mọi tiếng rên xuất phát từ lòng ta và từ những người xung quanh. Là lời cầu nguyện trong nghĩa đầy đủ chỉ khi được thực hiện trong thinh lặng, trong một sự hiện diện câm nín. Thỉnh thoảng người ta hay kể những mẩu chuyện về Cha thánh xứ Ars. Ngài ở lâu giờ trong phòng thánh để chuẩn bị kỹ lưỡng các bài giảng của Ngài, vì Ngài không được thông minh cho lắm. Ngài ngạc nhiên khi thấy cứ mỗi buổi chiều có anh nông dân, hết sức đơn sơ, không học thức, sau khi làm việc ngoài đồng về, bỏ guốc bên ngoài cửa, bước vào nhà thờ, đứng nép mình trong một góc thinh lặng lâu giờ. Có lần Cha thánh hỏi anh: ‘Này con, con làm gì ở đây vậy?’ Anh ta đáp: ‘Thưa cha, con nhìn Chúa và Chúa nhìn con’.
Người nông dân hết sức đơn sơ ấy đã đạt đến đỉnh cao hoàn thiện trong cầu nguyện. Hãy học điều ấy trước khi ta phải đối diện với những nhiệm vụ hằng ngày, hãy đặt mình, như Đức Giêsu ra ánh sáng để cho ta đầy tràn năng lượng, trong sự cầu nguyện đơn sơ của tình yêu và của sự thờ lạy: ‘Lạy Chúa, tạ ơn Chúa vì vinh quang cao cả Chúa’.
+++
Bài tin mừng hôm nay nêu bật hai chiều kích của đời sống trần thế của Đức Giêsu và sự kết hợp chặt chẽ của hai chiều kích đó. Chiều kích được thấy rõ ngay từ đầu là lòng thương xót của Người. Đức Giêsu tiếp cận với mọi cảnh huống khổ đau và lòng thương xót chính là: chạm đến mọi đau khổ và mang lại sự chữa lành. Sự chữa lành của lòng cảm thương. ‘Chiều đến, khi mặt rời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa’. Người cầm lấy tay những bệnh nhân: chính thân xác của Người thông ban sức mạnh chữa lành của Thiên Chúa.
Nhưng ta cũng gặp thấy Đức Giêsu ngay từ sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng, để cầu nguyện: đây là chiều kích khác của cuộc đời nhân thế của Người, tìm gặp Chúa Cha. Người cần phải thi hành những việc của Cha Người, cần phải kết hợp với Thiên Chúa và cầu nguyện lâu giờ. Nhưng lòng khao khát kết hợp với Thiên Chúa không ngăn cản Người đi đến với người khác; trái lại, khi họ tìm đến Người, Đức Giêsu không trả lời cho họ ‘ta cần thời gian để cầu nguyện’, nhưng: ‘Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó’. Cầu nguyện mang lại cho Người nhiệt huyết cao độ sống thương xót và nhân hậu, Người tìm gặp nơi trái tim của Chúa Cha nguồn mạch tình yêu mà Người phải trao ban cho mọi người.
Hai chiều kích trên ta gặp thấy nơi hai tính từ mà thư do thái áp dụng cho Đức Giêsu ‘vị thượng tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa’. Trung tín vì tương quan giữa Người với Thiên Chúa; nhân từ với mọi người và nhất là với tội nhân, vì Người đến để tha thứ, để xóa tội lỗi, để giúp con người chiến thắng những thử thách, ‘bản thân Người đã trải qua thử thách và đau khổ, nên Người có thể cứu giúp những ai bị thử thách’. Suốt cuộc đời trần thế, Đức Giêsu không có mục đích nào khác, theo thư do thái, là đưa đến mức hoàn thiện trong lòng Người mở rộng cho mọi người, lòng thương xót và sự kết hợp với Thiên Chúa là đấng làm cho Người nên trung tín.
Thư do thái trình bày cho ta một quan niệm mới về chức tư tế. Trong Cựu Ước người ta không nhấn mạnh đến lòng thương xót nhưng đến sự tách biệt: vị tư tế được tách biệt khỏi mọi người để thuộc về Thiên Chúa. Nhiều đoạn Cựu Ước tỏ cho ta thấy vị Thượng tế cần phải là người tách biệt cách không khoan nhượng khỏi tội lỗi và các tội nhân. Ngược lại Đức Giêsu không đặt mình bên trên chúng ta, nhưng cùng bình diện với chúng ta, đã mặc lấy tính xác thịt của ta, những đau khổ, những thử thách của ta cho đến cái chết để giúp đỡ ta. Người múc lấy lòng thương xót từ sự kết hợp với Thiên Chúa, nguồn mạch thương xót và trao ban cho ta. Đây là mạc khải lớn của mầu nhiệm nhập thể. Cựu ước đã nói về lòng thương xót của Thiên Chúa, nhưng sự nhập thể của Đức Giêsu chứng tỏ rằng Thiên Chúa đã muốn dùng một bản tính con người để có thể cảm thương nhiều hơn: Đức Giêsu đã động lòng thương, đã khóc, đã giận dữ, đã đau khổ để thực sự cảm thông với chúng ta.
Đây là lý do quan trọng để biết tri ân; ta biết rằng Chúa luôn gần bên chúng ta, bất cứ đau khổ nào, khó khăn nào, không bao giờ là ngăn trở giữa ta với Người nhưng là một cách thức kết hợp. do đó ta cần phải nhìn mọi sự trong cuộc đời mình mà hình như đôi lúc được xem như một vật cản, nhưng như một cách thức để lớn lên trong sự kết hợp với Thiên Chúa và trải lòng với mọi người. Đây là ân ban của ánh sáng để hiểu ra rằng các khó khăn, thường dễ làm ta nản lòng, trái lại gia tăng lòng tín thác của ta, vì chúng luôn đi kèm với ân sủng kết hợp đặc biệt với sự thương khó vinh quang của Đức Kitô và đồng thời biến ta liên đới với mọi người đau khổ. Đàng khác, hai bình diện này không thể tách biệt nhau vì khi kết hợp ta với sự thương khó của Đức Giêsu, ta có thể giúp những ai đau khổ, và trong tình liên đới với người đang đau khổ chúng ta thực sự kết hợp với Đức Kitô, đấng đã muốn đau khổ cùng với mọi kẻ khổ đau và tội lỗi.
Thứ Năm Tuần I Tn
Đức Giêsu chạnh lòng thương. Đây là một trong những vấn đề nan giải trong đời sống của Đức Giêsu: Người có khả năng chữa lành mọi bệnh tật, hay là chỉ chữa lành một vài bệnh, lúc này lúc khác. Ta hãy xin Chúa giúp làm sáng tỏ câu hỏi này: vì sao Đức Giêsu không chữa lành tất cả? Có lẽ Người không muốn rằng chúng ta chờ đợi Người làm những phép lạ để giải thoát con người khỏi mọi đau khổ: Người không muốn làm điều mà chính ta có bổn phận phải làm. Bệnh phong cùi vẫn còn phát triển tại nhiều nơi, nhưng nó là một bệnh có thể chữa lành: tùy thuộc vào chúng ta biết sử dụng mọi kỹ thuật, sự khôn ngoan, mọi nguồn lực con người để mang đến sự chữa lành. Đôi lúc trước khi ăn, ta nói: ‘Xin Chúa hãy ban lương thực cho những ai không có của ăn’. Chúa không làm tất cả thay cho chúng ta, nhưng Người luôn ở cùng chúng ta để chúng ta có sức mạnh phục vụ những người đau khổ.
+++
Ta hãy suy niệm những lời trong thư do thái: ‘Ngày hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Chúa, thì chớ cứng lòng’ là lời khuyến dụ luôn cần thiết và quan trọng. Để hiểu rõ, cần biết rằng tiếng Chúa trước hết không phải là một lệnh truyền, nhưng là một lời hứa, và dựa vào đó mà chúng ta được khuyến khích: khi chúng ta nghe tiếng Chúa hứa, đừng khép kín lòng.
Thánh vịnh đáp ca liên tưởng đến thời Xuất hành, chính xác là lúc dân do thái đi xuyên qua sa mạc đến gần Đất Hứa. Môsê ra lệnh cho những người do thám những điều về miền đất này, về sự phong phú, dân cư và các thành thị, và khi những người do thám trở về, ông bảo mọi người rằng: ‘Thiên Chúa ban đất nước này cho anh em, hãy tiến lên mà chiếm lấy’: đó là lời hứa của Thiên Chúa. Một vùng đất, theo lời kể của những người do thám, chảy sữa và mật ong, với những vụ mùa bội thu: thật tuyệt vời. Đối với dân vừa trải qua vùng sa mạc thì đây quả là điều tuyệt vời. Và Thiên Chúa phán: ‘Nó thuộc về anh em, Ta ban cho anh em’. Còn hơn một lời hứa, là một quà tặng.
Lúc ấy người do thái lại nghe một tiếng nói khác. Bên cạnh tiếng của Thiên Chúa trình bày quà tặng của Ngài và mời gọi tiến vào, còn có tiếng nói của sự nghi ngờ, bất tín: ‘Chúng ta không thể lên đánh dân ấy, vì họ mạnh hơn chúng ta’. Và đây là lời của những người do thám, sau khi kể những điều tuyệt vời của xứ sở đó, họ còn thêm: ‘Dân ở đó hung tợn, thành trì của họ rất kiên cố, chúng ta chỉ là châu chấu đối với họ’. Và tin này loan truyền trong dân, thêu dệt đến độ sau cùng họ cho rằng các thành lũy của dân ấy cao ngất trời…Như thế, thay vì nghe tiếng Chúa, đón nhận quà tặng của Ngài, dân chúng nổi loạn: Thiên Chúa đã dẫn chúng ta qua sa mạc để đưa vào nơi chết chóc này. Thà cứ để chúng ta bên Aicập! Như thế họ đã thử thách Thiên Chúa, đã làm Ngài nổi cơn giận, họ không còn tin tưởng vào lời Chúa hứa nữa.
Và tình cảnh này được thư Do thái nhắc lại và tác giả khuyến khích chúng ta: ‘Anh em hãy đề phòng, đừng để người nào trong anh em có lòng dạ xấu xa chối bỏ đức tin mà lìa xa Thiên Chúa hằng sống. Trái lại, ngày ngày anh em hãy khuyên bảo nhau bao lâu còn được gọi là ngày hôm nay, kẻo có ai trong anh em ra cứng lòng vì bị tội lỗi lừa gạt’ (Dt 3, 12-13), nghĩa là do tiếng nói khác luôn len lỏi vào lòng ta làm cho ta không thể tin rằng lời hứa của Thiên Chúa là khả thi, là một lời hứa không thực, khó thực hiện, và Thiên Chúa không sẵn lòng ban cho ta điều ghi chép trong Tin Mừng. ‘Quả thật chúng ta đã được thông phần Đức Kitô’. Không phải với Môsê mà chúng ta thực hiện cuộc xuất hành của mình nhưng là cùng với Đức Kitô chúng ta ngang qua sa mạc cuộc đời để đạt đến đất hứa. Nhưng để không trở thành đối tượng cho cơn giận của Thiên Chúa, cần phải vững vàng trong đức tin, vì nếu ta không tin vào lời hứa của Thiên Chúa, lời hứa của Ngài trở thành một đe dọa, một lời xét đoán đáng sợ: ‘Chúng sẽ không được vào chốn yên nghỉ của ta’. Lời đe dọa của Thiên Chúa là một hành vi yêu thương, nhằm giải thoát ta khỏi nỗi sợ hãi xấu.
Thứ Sáu Tuần I Tn
Lệnh truyền của Đức Giêsu với người bại liệt: ‘Đứng dậy!’ có lẽ cũng nhắc ta nhớ đến trình thuật sách Công Vụ trong đó thánh Phêrô nói với người què ăn xin ở cổng đền thờ: ‘Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây: nhân danh Đức Giêsu Kitô người Nagiarét, anh đứng dậy mà đi’. Cả hai đoạn này không thể tách lìa nhau. Cũng như Đức Kitô, thánh Phêrô nói với người què đứng dậy mà đi, nhưng điều mà ngài nói trước đó còn quan trọng hơn nhiều: Vàng bạc thì tôi không có, nghĩa là không có những gì mà thông thường người đời cho là ‘giàu sang’. Có thể ta có nhiều của cải, quyền hành, chức tước nhưng lại nghèo trong tinh thần nếu luôn ý thức rằng mình mắc nợ điều mình sở hữu. Mỗi tối hãy xét mình: Tôi đã làm gì từ những quyền hành, những phương thế tôi có? Tôi có sẵn sàng dùng những điều đó để phục vụ cho những người thân của tôi hoặc những người đau khổ?
Lạy Chúa Giêsu, xin làm cho chúng con biết, ngay cả khi chúng con sở hữu thật nhiều, ý thức rằng chẳng có gì thuộc về chúng con cả, tất cả là của anh em, của người khác, của mọi người. Như thế ta có thể nói cách chắc chắn với với con người đau khổ, bị thương tích, giống như thánh Phêrô đã nói với người què: ‘Hãy đứng dậy mà đi’.
Thứ Bảy Tuần I Tn
Là tin mừng của lòng thương xót. Nơi Thiên Chúa, công bình và thương xót không thể tách rời nhau. Ta nhận thấy điều ấy khi Đức Giêsu ngỏ lời với bọn biệt phái (là những người tưởng mình là người cao trọng và hoàn hảo): ‘Những người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông’. Như thế Chúa đã kêu gọi một người thu thuế (Lêvi) đến họp chung với nhóm tông đồ là những người đã ở với Người. Đức Kitô không dành riêng cho những người trí thức, cho các tiến sĩ luật, cho những người tuân giữ lề luật cách tỉ mỉ. Câu nói của Người sau đây mang lại cho ta niềm vui và hy vọng: ‘Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần; tôi không đến kêu gọi người công chính mà để kêu gọi người tội lỗi’.  Tất cả chúng ta đều bị thương tích và bệnh tật. Lạy Chúa, xin làm cho chúng con đừng bao giờ oán giận người khác. Xin làm cho chúng con, ở giữa một nhân loại đau thương, nên những chứng nhân của Thần Khí Người và loan báo tin mừng Người, không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hành động nữa.
Đức Giêsu đến để kêu gọi những người tội lỗi
Tin mừng ngày hôm qua cho ta thấy cuộc xung đột đầu tiên xoay quanh đề tài quyền tha tội (Mc 2,1-12). Tin mừng hôm nay chúng ta suy tư về xung đột thứ hai khi Chúa Giêsu đồng bàn cùng với những người ‘tội lỗi’ (Mc 2, 13-17). Thập niên 70, khi Mátcô viết Tin Mừng, trong các cộng đoàn kitô đã xảy ra cuộc xung đột giữa các kitô hữu gốc ngoại giáo và các kitô hữu gốc do thái. Các kitô hữu gốc Do thái khó chấp nhận việc vào nhà những người ngoại giáo trở lại và đồng bàn với họ (Cv 10,28; 11,3). Khi diễn tả cách xử sự của Chúa Giêsu, Mátcô đã đề ra cách giải quyết vấn nạn cho các cộng đoàn.
Đức Giêsu giảng dạy và dân chúng thích thú lắng nghe Ngài. Theo Tin Mừng thánh Mátcô, khởi đầu hoạt động của Đức Giêsu được ghi nhận bằng việc giảng dạy và bằng việc đón nhận của dân chúng (Mc 1,14.21.38-39; 2,2.13) bất chấp những phản đối của giới lãnh đạo tôn giáo. Đức Giêsu đã dạy gì? Ngài loan báo Tin Mừng của Thiên Chúa (Mc 1,14). Nói về Thiên Chúa, nhưng Ngài nói một cách hết sức mới mẽ. Khởi đi từ chính kinh nghiệm của riêng Ngài, kinh nghiệm của Ngài với Thiên Chúa và kinh nghiệm cuộc sống. Đức Giêsu sống trong Thiên Chúa. Và quả thật Ngài đã đánh động con tim của dân chúng, họ thích thú nghe Ngài (Mc 1,22.27). Thiên Chúa, thay vì là một quan toà nghiêm khắc, luôn đe doạ bằng hình phạt, hoả ngục, đã được trình bày cách mới mẽ như là một hiện diện thân thiện,Tin Mừng cho mọi người.
Đức Giêsu không đến để kêu gọi những người công chính, mà để kêu gọi những người tội lỗi. Thái độ này gây phẫn nộ nơi giới lãnh đạo tôn giáo. Cấm không được đồng bàn với người thu thuế và người tội lỗi, bởi lẽ ngồi đồng bàn với ai là ngụ ý xem người ấy như anh em. Thay vì nói thẳng với Đức Giêsu, các luật sĩ và biệt phái lại nói với các môn đệ ngài: Sao ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi? Đức Giêsu trả lời: Người khoẻ mạnh không cần đến thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi những người công chính, mà để kêu gọi những người tội lỗi. Cũng như trước đây với các môn đệ (Mc 1,38), giờ đây ý thức sứ vụ của Đức Giêsu giúp ngài tìm ra câu trả lời và chỉ rõ con đường loan báo Tin Mừng.
Đức Giêsu kêu gọi làm môn đệ của ngài một người tội lỗi, một người thu thuế, hạng người bị dân chúng ghét bỏ. Qua thái độ đó, đâu là sứ điệp Đức Giêsu muốn gởi đến chúng ta, đến Hội Thánh công giáo? Đức Giêsu đến để kêu gọi những người tội lỗi. Có những luật lệ, thói quen trong cộng đoàn (Hội Thánh, xứ đạo…) ngăn cản người tội lỗi đến với Đức Giêsu? Chúng ta có thể làm gì để thay đổi?

Lm. Phêrô Phạm Ngọc Lê