Vatican News
Thưa Đức Tổng Giám Mục, có phải Giáo hội Công giáo có một vấn đề với phụ nữ?
Cách diễn đạt câu hỏi có một chút khiêu khích, nhưng đúng, từ nhiều thế kỷ Giáo hội đã có vấn đề với phụ nữ, như hai tôn giáo độc thần khác nói chung và có lẽ hầu hết các tôn giáo. Nhưng điều này không được coi là một lời biện hộ; sẽ tốt đẹp và hợp pháp nếu Kitô giáo có sự khác biệt ngay từ đầu. Với một vài trường hợp ngoại lệ đáng mừng gần đây, dù phụ nữ không có mặt trong việc điều hành và giải thích Lời Chúa trong cử hành Chúa nhật, nhưng ở những nơi khác họ đều có mặt. Họ là “xương thịt” của giáo xứ, và thường là linh hồn của các Giáo hội tại gia là gia đình, và thường xuyên lo việc dạy giáo lý.
Trong việc trình bày của chúng ta, Giáo hội theo định nghĩa là vượt thời gian, một Giáo hội phụ hệ thì nằm ngoài trào lưu và mốt của thời đại. Tuy nhiên, do thiếu sự tham gia nhiều hơn của phụ nữ vào các vai trò trách nhiệm và tầm nhìn, một cách nghịch lý, Giáo hội của chúng ta có nguy cơ trở thành một Giáo hội lạc hậu, không thay đổi theo thời gian nhưng lỗi thời trong tổ chức. Giáo hội Công giáo, nghĩa là phổ quát, nếu không thuộc về thế giới, thì vẫn được ăn sâu vào thế giới và không thể trốn vào một lý luận tránh né tự quy chiếu đối với thế giới. Vấn đề về trách nhiệm của giáo dân, và do đó của cả phụ nữ, đã được nêu ra rộng rãi trong các cuộc tham vấn trước Thượng Hội đồng: ngày nay vấn đề này đã nổi bật. Cuộc chiến giữa các cậu giúp lễ, những người muốn xung quanh bàn thờ chỉ có các cậu bé, như đã xảy ra ở một số nơi, không còn có thể hình dung được nữa. Tại các Bộ của Vatican, nơi phụ nữ bắt đầu đông hơn trước và nắm giữ những vị trí có trách nhiệm cao hơn, bầu khí hoàn toàn khác. Chỉ cần một vài phụ nữ là đủ để Giáo triều không còn là nhóm giáo sĩ nhỏ dễ bị phê bình nữa.
Người ta thường nói rằng ngày nay không thể quy tụ một hội đồng ở cấp độ Giáo hội hoàn vũ do khó khăn cụ thể trong việc tập hợp hơn 5000 giám mục. Nhưng đó không phải là vấn đề. Hình ảnh đại thính đường Phaolô VI, trong Thượng Hội đồng, với các hồng y, giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ, giáo dân nam nữ, xung quanh các bàn, ở cùng một cấp độ, cho thấy một sự thay đổi của thời đại, nhận thức rằng nó đã trở nên không thể quyết định chỉ giữa các giám mục. Theo một nghĩa nào đó, Thượng Hội đồng về tính hiệp hành, một cách tự nhiên, đã làm cho viễn tượng về một Công đồng Vatican III trở nên lỗi thời! Ngày nay ai có thể tưởng tượng rằng tương lai của Giáo hội có thể được nhận định trong một hội nghị chỉ có các giám mục?
Vai trò của phụ nữ trong việc điều hành giáo phận Algeri như thế nào?
Trong giáo phận chúng tôi, ngoài các hội đồng, tôi còn làm việc với một nhóm nhỏ gồm những người quản lý chính của giáo phận: tổng đại diện, tổng thư ký, quản lý, người đứng đầu hoạt động mục vụ. Trong nhóm này có bốn phụ nữ và hai nam giới. Hầu hết các quyết định được thực hiện cùng nhau. Nói chung, tôi sống trong một môi trường về cơ bản là nữ tính, và đó là niềm vui hàng ngày! Điều đó không có nghĩa là không có xích mích. Một ngày nọ, một người trong số họ đã chỉ ra cho tôi rằng: “Nhưng cuối cùng thì chính Đức cha mới là người quyết định!”. Đó là sự thật, đó là một quan sát thực sự. Trong Giáo hội Công giáo chúng ta, giám mục là người chịu trách nhiệm phải đưa ra các quyết định. Mô hình chắc chắn có thể tiến triển. Về vấn đề này, các mô hình cai quản trong đời sống dòng tu có thể là cảm hứng: nhiều quyết định được đưa ra bởi các tu nghị hoặc hội đồng được bầu, và những hạn chế về quyền quyết định của bề trên không lấy đi quyền bính biểu tượng của họ. Nói như vậy, đối với tôi, dường như trong hầu hết các trường hợp, sự tin tưởng nảy sinh từ sự hiểu biết lẫn nhau và việc theo đuổi một dự án chung có nghĩa là hầu hết các quyết định đều được đưa ra với sự đồng thuận rộng rãi nếu không muốn nói là nhất trí. Và trong mọi trường hợp, ý kiến của mỗi người đều được lắng nghe và, bằng cách này hay cách khác, ảnh hưởng đến quyết định cuối cùng. Tôi tin rằng đó là một trải nghiệm mạnh mẽ cho mỗi người, kể cả tôi!
Có phải đằng sau vấn đề phụ nữ là vai trò của giáo dân?
Chắc chắn rồi! Trong giai đoạn cấp giáo phận của Thượng Hội đồng về tính hiệp hành, tại giáo phận Algeri, các Kitô hữu bản xứ đã bày tỏ rõ ràng mong muốn tham gia vào đời sống Giáo hội. Họ coi Giáo hội là của họ với tư cách là những người Algeria. Tuy nhiên, họ cảm thấy bị gạt ra bên lề so với chúng tôi, những người “có ảnh hưởng”, phần lớn là các tu sĩ và người nước ngoài, những người kể từ khi đất nước giành được độc lập đã đại diện cho các lực lượng sống động nòng cốt của Giáo hội. Thực tế, trước đây họ gần như vắng bóng trong các cơ quan ra quyết định. Chúng tôi đã lắng nghe tiếng nói của họ và đặc biệt lưu ý đến thành phần của các hội đồng khác nhau, giám mục, kinh tế và mục vụ. Trong hội đồng giám mục có hai linh mục, một nữ tu, một người của Phong trào Tổ ấm và năm giáo dân người Algeria, trong đó có hai phụ nữ. Điều này tạo ra một bầu không khí hoàn toàn khác. Ngay cả trong trường hợp này, chúng tôi ra khỏi vòng tròn hạn hẹp. Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng những quy tắc của chúng tôi phải được đặt sang một bên. Chúng tôi phải học cách hiểu nhau và đo lường vực thẳm hiểu lầm đôi khi chia cắt mà chúng tôi không nhận thức được vì nó không có chỗ để diễn tả. Giáo hội chúng ta phải trở nên ít tính giáo sĩ hơn, đó là một thách đố đối với Giáo hội hoàn vũ ở mọi cấp độ và mọi nơi. Thách đố này không thoát khỏi việc đòi hỏi quyền bính, với tất cả những điều khó chịu có thể kèm theo. Nhưng khiển trách ai đó vì muốn có được quyền bính thường có nghĩa là thực thi quyền bính đó mà không nhất thiết phải nhận thức được nó. Đây là lý do tại sao tôi gặp khó khăn khi phê bình những yêu cầu của phụ nữ trong Giáo hội với câu hỏi: “Tại sao họ muốn có quyền bính?”
Trong các xã hội, sự vận hành của Giáo hội về những vấn đề này xung đột với ý tưởng dân chủ?
Nguyên tắc tổ chức phẩm trật Giáo hội được bắt nguồn từ chế độ quân chủ … trừ việc kế vị cha truyền con nối! Chính tổ chức con người, hầu như ngay từ khi mới hình thành, đã đảm bảo được sự thống nhất và đã chứng thực điều đó liên tục. Trong mọi trường hợp, chúng ta là như vậy. Điều này không loại trừ sự hiện diện các chức năng và trường hợp dân chủ hơn bên trong nó, như xảy ra với các chế độ quân chủ hiện đại. Các anh chị em Tin Lành đã có trong máu nền văn hóa dân chủ, tức là đồng nghị, và chắc chắn chúng ta có nhiều điều phải học hỏi từ họ trong chuyển động về hiệp hành này theo phong cách Công giáo do Đức Thánh Cha khởi xướng. Tuy nhiên, sự năng động hiệp hành sẽ không dừng lại, sẽ mở rộng và phổ biến đến mọi cấp độ của Giáo hội. Mỗi bước lùi sẽ ngay lập tức thể hiện sự rất lỗi thời vì Giáo hội quan tâm đến tất cả những ai đã được rửa tội. Tôi tin rằng trách nhiệm trong Giáo hội, mà các vấn đề về quyền lực đã bị bóp méo, sẽ tăng lên khi người ta chia sẻ trách nhiệm đó. Chia sẻ trách nhiệm có nghĩa là củng cố nó, và Giáo hội chúng ta đang gặp khó khăn bởi sự thiếu hụt nghiêm trọng về việc giải trình.
Đức cha nghĩ thế nào về chức phó tế cho phụ nữ?
Cá nhân tôi rất hy vọng. Không có lập luận nào đưa ra thuyết phục được tôi. Vì vậy, tôi muốn vấn đề về nữ phó tế tiến triển, hoặc ít nhất là tiến thêm một bước nữa hướng tới việc cho phép phụ nữ, và nói chung, đối với giáo dân được đào tạo, giảng giải Lời Chúa trong bối cảnh cử hành Chúa nhật. Khác với thừa tác vụ linh mục, nữ phó tế có nguồn gốc từ truyền thống Giáo hội và tôi thấy khó hiểu những phản đối có thể được nêu ra, ngoại trừ việc dành chức linh mục, nghĩa là việc thi hành nhiệm vụ thánh, cho nam giới. Về vấn đề của các thừa tác vụ, cũng như vấn đề cai quản, chân trời được tiết lộ và mở rộng khi chúng ta bước đi. Những gì dường như không thể tưởng tượng được ngày hôm qua có thể dễ dàng trở thành sự thật vào ngày mai. Một sự hiện diện độc quyền của nam giới trong chức linh mục, những đoàn rước với lối vào lớn dành riêng cho nam giới, tất cả điều này dường như tự nhiên đối với chúng ta ngày nay. Điều này sẽ luôn luôn như thế hay một ngày nào đó nó sẽ có vẻ quá lỗi thời? Thực tế chỉ đặt câu hỏi đã gợi ra một sự thay đổi quan điểm …
Có phải vấn đề nảy sinh từ thực tế là ơn gọi của phụ nữ thường không được coi là tự thân nhưng liên quan đến ơn gọi của nam giới?
Đúng vậy, theo truyền thống trong Giáo hội ơn gọi nữ giới được coi là sự bổ sung. Nhưng điều này chưa đủ, cũng cần phải nghĩ điều này dưới góc độ đa dạng. Ơn gọi nữ giới tự nó có giá trị. Chiều kích đa dạng này là thực tế hiện tại trong đời sống hôn nhân. Các công việc được chia sẻ, cả cha và mẹ đều có thể làm việc, chăm sóc con cái… Mọi người đều thực hiện với sự đa dạng về giới tính, tính cách… Đó là những công việc giống nhau được thực hiện theo một cách khác nhau. Điều này áp dụng cho mọi lĩnh vực của xã hội. Làm sao người ta có thể nghĩ rằng không thể có tiếng vang của sự tiến triển xã hội này trong Giáo hội theo cách các đặc sủng và thừa tác vụ được thực thi, tôn trọng truyền thống, vốn không phải là một xác chết mà là một cơ thể sống, cũng như không bất động, nhưng luôn luôn di chuyển.
Vấn đề về sự khác biệt ám chỉ đến tình huynh đệ. Thực ra, tình huynh đệ đòi hỏi và đồng thời làm cho sự khác biệt trở nên khả thi. Tình huynh đệ làm cho mọi hình thức tương quan đều có thể thực hiện được. Một chị cả có thể giữ vai trò làm mẹ đối với em trai mình trong một thời gian. Một cái gì đó sẽ luôn tồn tại, nhưng mỗi người trong số họ sẽ trải nghiệm sự khác biệt cơ bản mà họ nhận được khi cả hai đều là con của cùng một cha mẹ. Cuộc sống sẽ đảm nhiệm việc phát triển mối quan hệ của họ và có thể đến một thời điểm nhất định sẽ đảo ngược lại.
Tôi tin tưởng sâu sắc rằng Giáo hội chúng ta cần phải coi mình là một cộng đoàn gồm những anh chị em. Đó là lời chứng cao nhất mà Giáo hội có thể cống hiến cho thế giới. Hơn cả một cuộc tranh giành quyền bính, sự tái cân bằng cần thiết giữa giáo sĩ và giáo dân, giữa nam và nữ, là vấn đề về sự khác biệt và tình huynh đệ. Nếu tôi thích được gọi là anh em hơn là cha hay đức cha, thì đó không phải vì sự khiêm tốn giả tạo hay kiêu ngạo, mà chính là vì vấn đề về sự khác biệt này, không xuất phát từ một sự lựa chọn, mà từ một thực tế: Tôi cần anh chị em trong giáo phận của tôi, như tôi cần những anh chị em trong dòng Đa Minh của tôi để trở nên là chính tôi đối với họ.