SUY NIỆM LỜI CHÚA. CHÚA NHẬT LỄ LÁ NĂM A

Chúa Nhật Lễ Lá – A

Kiệu Lá:

Bài Phúc Âm: Mt 21, 1-11

“Chúc tụng Ðấng nhân danh Chúa mà đến”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Matthêu.

1 Khi thầy trò đến gần thành Giê-ru-sa-lem và tới làng Bết-pha-ghê, phía núi Ô-liu, Đức Giê-su sai hai môn đệ và 2 bảo: “Các anh đi vào làng trước mặt kia, và sẽ thấy ngay một con lừa mẹ đang cột sẵn đó, có con lừa con bên cạnh. Các anh cởi dây ra và dắt về cho Thầy. 3 Nếu có ai nói gì với các anh, thì trả lời là Chúa cần đến chúng, Người sẽ gởi lại ngay.” 4 Sự việc đó xảy ra như thế để ứng nghiệm lời ngôn sứ:  5 ‘Hãy bảo thiếu nữ Xi-on: Kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi hiền hậu ngồi trên lưng lừa, lưng lừa con, là con của một con vật chở đồ.

Các môn đệ ra đi và làm theo lời Đức Giê-su đã truyền. 7 Các ông dắt lừa mẹ và lừa con về, trải áo choàng của mình trên lưng chúng, và Đức Giê-su cỡi lên. 8 Một đám người rất đông cũng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá mà rải lên lối đi. 9 Dân chúng, người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy:  Hoan hô Con vua Đa-vít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời.

10 Khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem, cả thành náo động, và thiên hạ hỏi nhau: “Ông này là ai vậy?” 11 Dân chúng trả lời: “Ngôn sứ Giê-su, người Na-da-rét, xứ Ga-li-lê đấy.”

Ðó là lời Chúa.

 

Thánh Lễ:

Bài Ðọc I: Is 50, 4-7

“Tôi đã không giấu mặt mũi tránh những lời nhạo cười, nhưng tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn”.

(Bài ca thứ ba về Người Tôi Tớ Chúa)

Trích sách Tiên tri Isaia.

4 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng

đã cho tôi nói năng như một người môn đệ,

để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức.

Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi

để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ.

5 ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng đã mở tai tôi,

còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.

Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,

giơ má cho người ta giật râu.

Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.

7 Có ĐỨC CHÚA là Chúa Thượng phù trợ tôi,

vì thế, tôi đã không hổ thẹn,

vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.

Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.

Ðó là lời Chúa.

 

Ðáp Ca: Tv 21, 8-9. 17-18a. 19-20. 23-24

Ðáp: Ôi Thiên Chúa! Ôi Thiên Chúa! sao Chúa đã bỏ con? (c. 2a)

Xướng: 1) Bao người thấy con đều mỉa mai con, họ bĩu môi, họ lắc đầu: “Hắn tin cậy Chúa, xin Ngài cứu hắn, xin Ngài giải gỡ hắn, nếu Ngài yêu thương”. – Ðáp.

2) Ðứng quanh con là đàn ưng khuyển, một lũ côn đồ bao bọc lấy con. Chân tay con chúng đều chọc thủng, con có thể đếm được mọi đốt xương con. – Ðáp.

3) Phần chúng thì nhìn xem con và vui vẻ, đem y phục của con chia sẻ với nhau, còn tấm áo dài, thì chúng rút thăm… Phần Ngài, lạy Chúa, xin chớ đứng xa con, ôi Ðấng phù trợ con, xin kíp ra tay nâng đỡ. – Ðáp.

4) Con sẽ tường thuật danh Chúa cho các anh em, giữa nơi công hội, con sẽ ngợi khen Người. “Chư quân là người tôn sợ Chúa, xin hãy ca khen Chúa, toàn thể miêu duệ nhà Giacóp, hãy chúc tụng Người, hãy tôn sợ Người, hết thảy dòng giống Israel!” – Ðáp.

 

Bài Ðọc II: Pl 2, 6-11

“Người đã tự hạ mình; vì thế Thiên Chúa đã tôn vinh Người”.

Trích thư Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Philipphê.

6  Đức Giê-su Ki-tô

vốn dĩ là Thiên Chúa

mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì

địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,

7 nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang

mặc lấy thân nô lệ,

trở nên giống phàm nhân

sống như người trần thế.

8 Người lại còn hạ mình,

vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,

chết trên cây thập tự.

9  Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người

và tặng ban danh hiệu

trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.

10 Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giê-su,

cả trên trời dưới đất

và trong nơi âm phủ,

muôn vật phải bái quỳ;

11 và để tôn vinh Thiên Chúa Cha,

mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng:

“Đức Giê-su Ki-tô là Chúa”. 

Ðó là lời Chúa.

 

Câu Xướng Trước Phúc Âm: Pl 2, 8-9

Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá. Vì thế, Thiên Chúa đã tôn vinh Người, và ban cho Người một danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu.

 

Bài Thương Khó: Mt 26, 14 – 27, 66 (bài dài)

“Sự Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”.

C: Người đọc Chung, Thánh Sử; S: Người đối thoại khác, hoặc Cộng đoàn. J: Chúa Giêsu

 

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, một trong nhóm Mười Hai, tên là Giuđa Iscariô, đi gặp các thượng tế và nói với họ:

S. “Các ông cho tôi bao nhiêu, tôi nộp Người cho các ông?”

C. Họ liền ấn định cho ba mươi đồng bạc. Và từ đó, hắn tìm dịp thuận tiện để nộp Người. Ngày thứ nhất tuần lễ ăn bánh không men, các môn đệ đến thưa Chúa Giêsu rằng:

J. “Thầy muốn chúng con sửa soạn cho Thầy ăn Lễ Vượt Qua ở đâu?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Các con hãy vào thành, đến với một người kia nói rằng: Thầy bảo, giờ Ta đã gần, Ta sẽ mừng Lễ Vượt Qua với các môn đệ tại nhà ông”.

C. Các môn đệ làm như Chúa Giêsu truyền và sửa soạn Lễ Vượt Qua. Chiều đến, Người ngồi bàn ăn với mười hai môn đệ.

Và khi các ông đang ăn, Người nói:

J. “Thầy nói thật với các con: có một người trong các con sẽ nộp Thầy”.

C. Môn đệ rất buồn rầu và từng người bắt đầu hỏi Người:

S. “Thưa Thầy, có phải con không?”

C. Người trả lời rằng:

J. “Kẻ giơ tay cùng chấm vào đĩa với Thầy, đó chính là kẻ nộp Thầy. Thực ra, Con Người sẽ ra đi như đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ sẽ nộp Con Người! Thà người đó đừng sinh ra thì hơn!”

C. Giuđa, kẻ phản bội, cũng thưa Người rằng:

S. “Thưa Thầy, có phải con chăng?”

C. Chúa đáp:

J. “Ðúng như con nói”.

C. Vậy khi mọi người còn đang ăn, Chúa Giêsu cầm lấy bánh, đọc lời chúc tụng, bẻ ra và trao cho các môn đệ mà phán:

J. “Các con hãy cầm lấy mà ăn, vì này là Mình Ta”.

C. Ðoạn Người cầm lấy chén, tạ ơn, rồi trao cho các môn đệ mà phán:

J. “Tất cả các con hãy uống chén này, vì này là Máu Ta, Máu Tân Ước, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Thầy bảo các con: Từ nay, Thầy sẽ không còn uống chất nho này nữa cho đến ngày Thầy sẽ uống rượu mới cùng các con trong nước Cha Thầy”.

C. Sau khi hát thánh vịnh, Thầy trò liền lên núi Ôliu. Bấy giờ Chúa Giêsu bảo các ông:

J. “Tất cả các con sẽ vấp phạm vì Thầy trong chính đêm nay, vì có lời chép rằng: “Ta sẽ đánh chủ chăn, và các chiên trong đoàn sẽ tan tác”. Nhưng sau khi Thầy sống lại, Thầy sẽ đến xứ Galilêa trước các con”.

C. Phêrô liền thưa:

S. “Dù tất cả vấp phạm vì Thầy, riêng con, con sẽ không bao giờ vấp phạm”.

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Thầy bảo thật con, chính đêm nay, trước khi gà gáy, con sẽ chối Thầy ba lần”.

C. Phêrô lại thưa:

S. “Dù có phải chết cùng Thầy, con sẽ không chối Thầy”.

C. Và tất cả các môn đệ cùng nói như vậy.

Rồi Chúa Giêsu cùng đi với các ông đến một chỗ gọi là Ghếtsêmani, và Người bảo các môn đệ:

J. “Các con hãy ngồi đây để Thầy đến đàng kia cầu nguyện”.

C. Ðoạn Chúa đưa Phêrô và hai người con ông Giêbêđê cùng đi, Người bắt đầu cảm thấy buồn bực và sầu não. Lúc ấy, Người bảo các ông:

J. “Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy”.

C. Tiến xa hơn một chút, Người sấp mặt xuống, cầu nguyện và nói:

J. “Lạy Cha, nếu được, xin cho Con khỏi chén này! Nhưng đừng như ý Con muốn, một theo ý Cha muốn”.

C. Người trở lại cùng các môn đệ và thấy các ông đang ngủ, liền nói với Phêrô:

J. “Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối”.

C. Rồi Người lại đi cầu nguyện lần thứ hai mà rằng:

J. “Lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha”.

C. Ðoạn Người trở lại và thấy các ông còn ngủ, vì mắt các ông nặng trĩu. Người để mặc các ông và đi cầu nguyện lần thứ ba, vẫn lại những lời như trước. Sau đó Người trở lại với các môn đệ và bảo:

J. “Bây giờ các con hãy ngủ và nghỉ ngơi đi! Này sắp đến giờ Con Người sẽ bị nộp trong tay những kẻ tội lỗi. Các con hãy chỗi dậy. Chúng ta hãy đi: này kẻ nộp Thầy đã tới gần”.

C. Người còn đang nói, thì đây, Giuđa, một trong nhóm mười hai, và cùng với y có lũ đông mang gươm giáo gậy gộc, do các thượng tế và kỳ lão trong dân sai đến. Vậy tên nội công đã dặn họ ám hiệu này:

S. “Hễ tôi hôn người nào, thì đó chính là Người, các ông hãy bắt lấy”.

C. Tức khắc Giuđa tới gần Chúa Giêsu và nói:

S. “Chào Thầy”.

C. Và nó hôn Người. Nhưng Chúa Giêsu bảo:

J. “Hỡi bạn, bạn đến đây làm chi?”

C. Lúc đó chúng xông tới, tra tay bắt Chúa Giêsu. Ngay sau đó, một trong những người vẫn theo Chúa Giêsu, giơ tay rút gươm và chém tên đầy tớ thầy thượng tế đứt một tai. Chúa Giêsu liền bảo:

J. “Con hãy xỏ ngay gươm vào bao: vì tất cả những kẻ dùng gươm sẽ chết vì gươm. Nào con tưởng rằng Thầy không thể xin Cha Thầy và Ngài sẽ tức khắc gởi đến hơn mười hai cơ binh thiên thần sao? Mà như thế thì làm sao ứng nghiệm lời Kinh Thánh bảo: Sự thế phải như vậy?”

C. Lúc đó Chúa Giêsu nói cùng đám đông rằng:

J. “Các ngươi cầm gươm giáo gậy gộc đi bắt Ta như bắt tên cướp ư? Hằng ngày Ta ngồi trong đền thờ, giữa các ngươi, mà các ngươi không bắt Ta. Nhưng tất cả sự đó xảy ra là để ứng nghiệm lời các tiên tri đã chép”.

C. Bấy giờ các môn đệ bỏ Người và chạy trốn hết.

Những kẻ đã bắt Chúa Giêsu điệu Người đến thầy thượng tế Caipha. Nơi đây các luật sĩ và kỳ lão đã hội họp. Phêrô theo Người xa xa cho tới dinh thầy thượng tế. Rồi ông vào trong dinh ngồi cùng bọn đầy tớ, xem việc xảy ra thế nào. Vậy các thượng tế và tất cả công nghị tìm chứng gian cáo Chúa Giêsu để lên án xử tử Người. Và họ đã không tìm được, mặc dù đã có một số đông chứng nhân ra mắt. Sau cùng, hai người làm chứng gian đến khai rằng:

S. “Người này đã nói: Ta có thể phá đền thờ Thiên Chúa và xây cất lại trong ba ngày”.

C. Bấy giờ thầy thượng tế đứng lên nói:

S. “Ông không trả lời gì về các điều những người này đã cáo ông ư?”

C. Nhưng Chúa Giêsu làm thinh, nên thầy thượng tế bảo Người:

S. “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, ta truyền cho ông hãy nói cho chúng ta biết: Ông có phải là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa không?”

C. Chúa Giêsu trả lời:

J. “Ông đã nói đúng. Nhưng Ta nói thật với các ông: rồi đây các ông sẽ xem thấy Con Người ngự bên hữu Ðấng Toàn Năng, và sẽ đến trên đám mây”.

C. Bấy giờ thầy thượng tế xé áo mình ra và nói:

S. “Nó đã nói lộng ngôn! Chúng ta còn cần gì đến nhân chứng nữa? Ðây các ngài vừa nghe lời lộng ngôn. Các ngài nghĩ sao?”

C. Họ đáp lại:

S. “Nó đáng chết!”

C. Bấy giờ chúng nhổ vào mặt Người, đấm đánh Người, lại có kẻ tát vả Người mà nói rằng:

S. “Hỡi Kitô, hãy bói xem, ai đánh ông đó?”

C. Còn Phêrô ngồi ở ngoài sân. Một đầy tớ gái lại gần và nói:

S. “Ông nữa, ông cũng đã theo Giêsu người xứ Galilêa”.

C. Nhưng ông chối trước mặt mọi người mà rằng:

S. “Tôi không hiểu chị muốn nói gì?”

C. Khi ông lui ra đến cổng, một đầy tớ gái khác thấy ông, liền nói với những người ở đó:

S. “Ông này cũng theo Giêsu người Nadarét”.

C. Ông thề mà chối rằng:

S. “Tôi không biết người ấy”.

C. Một lúc sau, mấy người đứng đó lại gần mà nói với Phêrô rằng:

S. “Ðúng rồi, ngươi cũng thuộc bọn ấy. Vì chính giọng nói của ngươi tiết lộ tông tích ngươi”.

C. Bấy giờ ông rủa mà thề rằng: ông không hề biết người ấy. Tức thì gà gáy. Phêrô nhớ lại lời Chúa Giêsu đã nói: “Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần”, và ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết.

Trời vừa sáng, các thượng tế và kỳ lão trong dân hội họp bày mưu giết Chúa Giêsu. Họ trói Người và điệu đi nộp cho tổng trấn Phongxiô Philatô. Bấy giờ Giuđa, kẻ nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận, đem ba mươi đồng bạc trả lại cho các thượng tế và kỳ lão mà nói rằng:

S. “Tôi đã phạm tội vì nộp máu người công chính”.

C. Nhưng họ trả lời:

S. “Can chi đến chúng tôi! Mặc kệ anh!”

C. Anh ta ném những đồng bạc đó vào trong đền thờ và ra đi thắt cổ. Các thượng tế lượm lấy bạc đó và nói:

S. “Không nên để bạc này vào kho vì là giá máu”.

C. Sau khi bàn bạc, họ lấy tiền đó mua thửa ruộng của người thợ gốm làm nơi chôn cất những người ngoại kiều. Bởi thế, ruộng ấy cho đến ngày nay được gọi là Haselđama, nghĩa là ruộng máu. Như vậy là ứng nghiệm lời tiên tri Giêrêmia nói: “Chúng đã lấy ba mươi đồng bạc là giá do con cái Israel đã mặc cả mà bán Ðấng cao trọng. Và họ mang tiền đó mua ruộng của người thợ gốm như lời Chúa đã truyền cho tôi”.

Vậy Chúa Giêsu đứng trước quan tổng trấn, và quan hỏi Người rằng:

S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Ông nói đúng!”

C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:

S. “Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?”

C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:

S. “Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?”

C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:

S. “Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy”.

C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

S. “Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?”

C. Họ thưa:

S. “Baraba!”

C. Philatô hỏi:

S. “Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?”

C. Họ đồng thanh đáp:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Quan lại hỏi:

S. “Nhưng người này đã làm gì nên tội?”

C. Chúng càng la to:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:

S. “Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi”.

C. Toàn dân đáp:

S. “Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi”.

C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.

Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:

S. “Tâu vua dân Do-thái!”

C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.

Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: “Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm”. Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.

Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:

S. “Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!”

C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:

S. “Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: “Ta là Con Thiên Chúa!”

C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:

J. “Eli, Eli, lema sabachtani!”

C. Nghĩa là:

J. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!”

C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:

S. “Nó gọi tiên tri Elia”.

C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:

S. “Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?”

C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:

S. “Ðúng người này là Con Thiên Chúa”.

C. Ở đó cũng có nhiều phụ nữ đứng xa xa; họ là những người đã theo giúp Chúa Giêsu từ xứ Galilêa. Trong số đó có Maria Mađalêna, Maria mẹ của Giacôbê và Giuse, và mẹ các người con của Giêbêđê.

Tới chiều có một người giàu sang quê ở Arimathia tên là Giuse, cũng đã làm môn đệ Chúa Giêsu, ông đi gặp Philatô và xin xác Chúa Giêsu. Bấy giờ Philatô truyền giao xác cho ông. Vậy ông Giuse lấy xác, liệm trong một khăn sạch, và đặt trong mồ mà ông đã cho đục trong đá, rồi ông lăn một tảng đá lớn lấp cửa mồ lại và ra về. Còn Maria Mađalêna và bà Maria kia cùng ngồi đó nhìn vào mộ.

Hôm sau, tức là sau ngày chuẩn bị mừng lễ, các thượng tế và biệt phái đến dinh Philatô trình rằng:

S. “Thưa ngài, chúng tôi nhớ, lúc sinh thời tên bịp bợm ấy có nói: “Sau ba ngày, Ta sẽ sống lại”. Vậy xin ngài truyền lệnh cho canh mộ đến ngày thứ ba, kẻo môn đệ nó lấy trộm xác rồi phao đồn với dân chúng rằng: Người đã từ cõi chết sống lại! Và như thế, sự gian dối này lại còn tai hại hơn trước”.

C. Philatô trả lời:

S. Các ông đã có lính canh thì cứ đi mà canh như ý.

C. Họ liền đi và đóng ấn niêm phong tảng đá và cắt lính canh giữ mồ.

 

Hoặc đọc bài vắn này: Mt 27, 11-54

C. Bài Thương Khó Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, theo Thánh Matthêu.

Khi ấy, Chúa Giêsu đứng trước tổng trấn Phi-latô, và quan hỏi Người rằng:

S. “Ông có phải là Vua dân Do-thái không?”

C. Chúa Giêsu đáp:

J. “Ông nói đúng!”

C. Nhưng khi các thượng tế và kỳ lão tố cáo Người thì Người không trả lời chi cả. Bấy giờ Philatô bảo Người:

S. “Ông không nghe thấy tất cả những điều họ tố cáo ông sao?”

C. Chúa Giêsu cũng không đáp lại về một điều nào, khiến quan tổng trấn hết sức ngạc nhiên.

Vào mỗi dịp lễ trọng, quan tổng trấn có thói quen phóng thích cho dân một người tù tuỳ ý họ xin. Lúc ấy có một phạm nhân nổi tiếng tên là Baraba. Vậy Philatô nói với dân chúng đã tụ tập lại đó rằng:

S. “Các ngươi muốn ta phóng thích ai, Baraba hay Giêsu mà người ta vẫn gọi là Kitô?”

C. Quan biết rõ chỉ vì ghen ghét mà chúng đã nộp Người. Vậy trong khi quan ngồi xét xử, bà vợ sai người nói cùng quan rằng:

S. “Xin ông đừng can thiệp gì đến vụ người công chính ấy, vì hôm nay trong một giấc chiêm bao, tôi đã phải đau khổ rất nhiều vì người ấy”.

C. Nhưng các thượng tế và kỳ lão xúi giục dân xin tha Baraba và giết Chúa Giêsu. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

S. “Trong hai người đó các ngươi muốn ta phóng thích ai?”

C. Họ thưa:

S. “Baraba!”

C. Quan lại lên tiếng hỏi họ:

S. “Vậy đối với Giêsu gọi là Kitô, ta phải làm gì?”

C. Họ đồng thanh đáp:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Quan lại hỏi:

S. “Nhưng người này đã làm gì nên tội?”

C. Chúng càng la to:

S. “Ðóng đinh nó đi!”

C. Bấy giờ Philatô thấy mất công, lại thêm náo động, nên ông lấy nước rửa tay trước mặt dân chúng và nói:

S. “Ta vô can về máu người công chính này, mặc kệ các ngươi”.

C. Toàn dân đáp:

S. “Hãy để cho máu nó đổ trên chúng tôi và trên con cái chúng tôi”.

C. Bấy giờ quan phóng thích Baraba cho họ, còn Chúa Giêsu thì trao cho họ đánh đòn, rồi đem đi đóng đinh vào thập giá.

Bấy giờ lính tổng trấn liền điệu Chúa Giêsu vào trong công đường và tập họp cả cơ đội lại chung quanh Người. Họ lột áo Người ra, khoác cho Người một áo choàng đỏ, rồi quấn một vòng gai đặt trên đầu Người và trao vào tay mặt Người một cây sậy, họ quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng rằng:

S. “Tâu vua dân Do-thái!”

C. Ðoạn họ khạc nhổ vào Người và lấy cây sậy đập trên đầu Người. Khi đã chế nhạo Người xong, họ lột áo choàng đỏ ra, mặc y phục cũ lại cho Người và điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Lúc đi ra, họ gặp một người thành Xyrênê tên là Simon, liền bắt ông vác đỡ thánh giá cho Người.

Họ đi đến một nơi gọi là Golgotha, nghĩa là Núi Sọ. Họ cho Người uống rượu hoà với mật đắng, Người chỉ nếm qua nhưng không muốn uống. Khi đã đóng đinh Người trên thập giá rồi, họ rút thăm chia nhau áo Người, để ứng nghiệm lời tiên tri rằng: “Chúng đã chia nhau áo Ta, còn áo ngoài của Ta, chúng đã bắt thăm”. Rồi họ ngồi lại canh Người. Họ cũng đặt trên đầu Người bản án viết như sau: Người này là Giêsu, vua dân Do-thái. Lúc ấy, cùng với Người, họ đóng đinh hai tên trộm cướp, một tên bên hữu, một tên bên tả.

Những người đi ngang qua, lắc đầu chế diễu Người và nói:

S. “Kìa, ngươi là kẻ phá đền thờ và xây cất lại trong ba ngày, hãy tự cứu mình đi, nếu là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá đi!”

C. Các thượng tế cùng luật sĩ và kỳ lão cũng chế nhạo Người rằng:

S. “Nó đã cứu được kẻ khác mà không cứu nổi chính mình! Nếu nó là vua dân Do-thái, thì bây giờ hãy xuống khỏi thập giá đi để chúng ta sẽ tin nó. Nó đã trông cậy Thiên Chúa, nếu Ngài thương nó thì bây giờ Ngài hãy cứu nó, vì nó nói: “Ta là Con Thiên Chúa!”

C. Cả những tên cướp bị đóng đinh trên thập giá với Người cũng nhục mạ Người như thế. Từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín, khắp cả xứ đều tối tăm mù mịt. Vào khoảng giờ thứ chín thì Chúa Giêsu kêu lớn tiếng:

J. “Eli, Eli, lema sabachtani!”

C. Nghĩa là:

J. “Lạy Chúa con, lạy Chúa con! sao Chúa bỏ con!”

C. Có mấy người đứng đó nghe vậy nói rằng:

S. “Nó gọi tiên tri Elia”.

C. Lập tức một người trong bọn chạy đi lấy một miếng bọt biển, nhúng đầy dấm và cuốn vào đầu cây sậy và đưa lên cho Người uống. Nhưng có kẻ lại bảo:

S. “Hãy chờ xem Elia có đến cứu nó không?”

C. Ðoạn Chúa Giêsu lại kêu lên lớn tiếng và trút hơi thở.

(Quỳ gối thinh lặng thờ lạy trong giây lát)

Bỗng nhiên màn đền thờ xé ra làm đôi từ trên xuống dưới, đất chuyển động, đá nứt ra. Các mồ mả mở tung và xác của nhiều vị thánh đã qua đời được sống lại. Và sau khi Chúa sống lại, họ ra khỏi mồ, vào thành thánh và hiện ra cùng nhiều người. Còn viên sĩ quan và những kẻ cùng ông canh giữ Chúa Giêsu, thấy đất chuyển động và các sự xảy ra, thì thất kinh sợ hãi và nói:

S. “Ðúng người này là Con Thiên Chúa”.

Suy niệm và Cầu nguyện

Suy niệm

Chúng ta tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa
khi thế giới hôm nay đang sống trong cuộc thương khó của mình.
Toàn bộ cuộc sống của nhân loại chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh
do một loại vi rút mới mà người ta chưa rõ tính chất của nó.
Nó có mặt ở trên hai trăm quốc gia, và bắt nửa dân số thế giới phải ở nhà.
Cả triệu người nhiễm bệnh, hơn sáu chục ngàn người chết.
Không đủ bệnh viện, không đủ giường, không đủ khẩu trang,
Không đủ máy thở, không đủ nhà xác, không đủ lò thiêu,
Và cũng không đủ nhân viên y tế được trang bị kỹ càng.
Cái chết đến khi người ta khó thở, ngộp thở và tắt thở.
Người chết thường phải chết một mình, vắng bóng người thân.
Chẳng có tang lễ cầu kỳ, có khi chẳng có người thân đưa ra mộ.

Trong bầu khí ảm đạm của cả thế giới đang chiến đấu chống dịch,
Thập giá của Đức Giêsu cách đây gần hai ngàn năm
Có đem lại cho chúng ta niềm an ủi nào không?

Đức Giêsu bị treo giữa trời và đất.
Tay chân Ngài bị đóng đinh, máu chảy ra từ những vết thương,
Trận roi đòn làm rách da thịt khiến Ngài kiệt sức.
Khuôn mặt của Ngài vẫn còn nguyên những vết khạc nhổ.
Ngài bị khạc nhổ ở nhà thượng tế Caipha và ở dinh Philatô.
Ngài luôn phải nghe những lời tố cáo của các nhà lãnh đạo.
Nhưng Ngài vẫn chẳng đáp lại một lời (Mt 26,63; 27,12-24).
Như con chiên trước lò sát, Ngài hiền lành đón nhận mọi sự.

Đức Giêsu trên thập giá là Đức Giêsu bị cám dỗ.
Cám dỗ này tương tự như cám dỗ trong hoang địa.
“Nếu ông là Con Thiên Chúa thì hãy xuống khỏi thập giá đi.
Chỉ cần xuống là chúng ta tin liền” (Mt 27,42).
Đức Giêsu đã không xuống, và cũng không xin Cha đưa mình xuống.
Ngài biết rõ Cha muốn Ngài ở đây, chịu cơn thử thách này.
Ngài biết Cha muốn Ngài uống chén đắng,
nên Ngài đã để cho mình bị bắt mà không kháng cự.
Cha sẽ giải thoát Ngài theo cách Cha muốn và vào lúc Cha muốn.
Đức Giêsu là Con, ở lại trên thập giá và để cho Cha định liệu.

Đức Giêsu trên thập giá là Đức Giêsu giang tay.
Và đây là hai bàn tay trắng.
Ngài không mang theo điều gì khi về với Cha, trừ tình yêu.
Ngài chấp nhận mất tất cả: mạng sống, danh dự, môn đệ…
Giuđa đã phản bội, Phêrô đã chối, môn đệ khác đã bỏ chạy.
Ngài bị coi là xấu xa hơn Barabba, bị đóng đinh giữa hai tên cướp.
Cả đến y phục Ngài mặc cũng đã bị tước đoạt.
Bây giờ cái chết đang từ từ nuốt chửng Ngài.
Hơi thở của Ngài trở nên khó khăn và ngắt quãng.
Nhưng điều kinh khủng hơn cả mà giờ đây Ngài bị mất,
đó là niềm an ủi đỡ nâng mà Ngài vẫn có từ Cha.
“Lạy Thiên Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con,
tại sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27,46).
Vào lúc Ngài cần Cha hơn cả thì Ngài lại cảm thấy như bị Cha bỏ rơi,
Nhưng Đức Giêsu vẫn gọi Cha, trò chuyện với Cha, và hỏi Cha.
Đúng là Ngài thấy Cha xa cách mình, để mình bơ vơ,
nhưng chưa bao giờ Ngài để cho mối dây với Cha bị cắt đứt.

Đức Giêsu đã trút hơi thở cuối cùng như mọi người chúng ta.
Trước khi chết Ngài đã kêu lớn tiếng, đã gọi tên Thiên Chúa.
Ngài ra đi một mình như nhiều người trong chúng ta.
Cái chết của Ngài không có vẻ nhẹ nhàng êm ả,
nhưng khốc liệt như một cuộc chiến đấu đã mang về phần thắng.
Ngài đúng là một người công chính (Mt 27,19),
đúng là Con Thiên Chúa như lời viên sĩ quan dân ngoại (Mt 27,54).

Hôm nay cũng có bao bệnh nhân đang hấp hối trong Vườn Dầu.
Có những người đang bị đóng đinh vào giường bệnh,
Có những người sắp về với Chúa mà vẫn hỏi: Tại sao Chúa bỏ con?
Chúng ta cầu xin cho những ai chết giống Chúa trên thập giá,
chết cho Chúa và chết trong Chúa,
cũng hy vọng được sống lại như Chúa Giêsu phục sinh.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa,
Con người hôm nay chênh vênh giữa trời cao và vực thẳm,
Chúa đã cho chúng con tự do để chọn
giữa thiện và ác,
giữa đồng cảm và vô cảm,
giữa chân lý và dối trá.
giữa tha thứ và hận thù,
giữa hiệp nhất và chia rẽ.

Chúa đã được giương cao khỏi mặt đất,
Và Chúa hứa sẽ kéo mọi người lên.
Vậy mà chúng con hôm nay vẫn còn chênh vênh!
Cuộc đời này có bao điều hút chúng con xuống,
Khiến chúng con cứ bị giằng co nghiêng ngả.

Xin giúp chúng con buông bỏ những đam mê trần tục,       
Để dám chọn điều Chúa đã chọn trên Thánh Giá:
chọn khó nghèo, nhục nhã, chọn tự hạ, khổ đau.
Nhờ sức mạnh cứu độ của Thánh Giá Chúa,
Xin đưa chúng con ra khỏi thế đứng chênh vênh
Để trọn vẹn thuộc về Chúa.

(Sr. Augusta Lý Bích Nam)