MÔ HÌNH CÔNG NGHỆ TOÀN CẦU DƯỚI CÁI NHÌN CỦA LAUDATO SI’
Lm. Giuse Võ Tá Hoàng
WGPQN (30.10.2020) – Thông điệp Laudato Si’ của Đức Giáo hoàng Phanxicô sau 5 năm vẫn còn là một bất ngờ lớn cho Giáo hội và cả thế giới, bởi nó đụng chạm đến những khủng hoảng mà thế giới đang phải đối diện. Thông điệp này được nhiều người đánh giá như cuốn bách khoa toàn thư về môi trường, hay như một chiếc la bàn để hướng dẫn bước đi mới của xã hội loài người. Không còn nghi ngờ gì nữa, tài liệu này đưa ra một sự chỉ trích mạnh mẽ về hệ thống kinh tế, chính trị quốc tế và địa phương trước sự suy thoái môi trường toàn cầu. Nó làm cho những suy nghĩ của con người bước vào cuộc tìm kiếm một nền nhân chủng học không đơn giản chỉ là khai thác các tài nguyên, nơi mà con người nghĩ rằng mình là kẻ chuyên quyền, thống trị. Nó làm cho xã hội bước vào lộ trình lắng nghe tiếng khóc của những người nghèo đang kêu lên từ mọi ngõ ngách của thế giới, bởi vì những khủng hoảng về môi trường kéo theo mối quan hệ khác của xã hội loài người; bạo lực đối với thiên nhiên kéo theo mối quan hệ bạo lực giữa các dân tộc. Nó làm cho nền kinh tế bước vào cuộc tìm kiếm một mô hình phát triển mới không tập trung vào lợi nhuận cá nhân mà tập trung vào chất lượng cuộc sống của nhân loại. Nó làm cho nền công nghệ không thể tự cho rằng mình là phương thuốc trị bách bệnh cho mọi tệ nạn, nhưng cảm thấy cần phải đối thoại với nền đạo đức và với những câu hỏi quan trọng của loài người. Nó làm cho nền chính trị không trở thành nhà quản lý quyền lực cho riêng mình mà trái lại, phải tự đặt mình phục vụ cho xã hội. Cần có một nền văn hóa chăm sóc, chịu trách nhiệm về tương lai của hành tinh này và khả năng duy trì sự sống trong một thế giới đang thay đổi khí hậu cách đột ngột và tàn khốc đến như vậy. Nó cũng làm cho Giáo hội suy nghĩ lại về mô hình mục vụ để phục vụ cộng đoàn Kitô giáo.[1]
Tư tưởng của Laudato Si’ thật sự tạo ra chuyển động. Nó mang lại hy vọng mới mẻ giúp con người vượt qua những khủng hoảng đang ăn mòn hành tinh của chúng ta từng ngày. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã tấu lên giai điệu của niềm hy vọng mới khi viết trong thông điệp này : “Tuy nhiên tất cả sẽ không hư mất. Con người, trong khi có thể làm điều tồi tệ nhất, cũng có khả năng vượt lên trên chính mình, trở lại để chọn lựa điều tốt đẹp, và thực hiện một sự khởi đầu mới, bất kể điều kiện tinh thần và xã hội của họ. Chúng ta có thể chân thành nhìn vào bản thân, để nhận biết sự bất mãn thẳm sâu của chúng ta, và để dấn thân trên những nẻo đường mới dẫn đến sự tự do đích thực”.[2]
Thông điệp Laudato Si’ đặt ra nhiều vấn nạn cho thế giới hôm nay, nó mang tính toàn diện bao phủ toàn bộ toan tính của con người, vốn tạo ra sự suy giảm chất lượng cuộc sống và suy thoái xã hội và môi trường.
Bài viết này đề cập đến vấn đề nóng bỏng được Đức Giáo hoàng Phanxicô nêu ra trong thông điệp Laudato Si’, đó là mô hình kỹ trị toàn cầu đang chiếm ưu thế trong dòng chảy của lịch sử thế giới hôm nay. Từ đó cho chúng ta thấy được hướng đi mới, bởi vì mọi thứ sẽ không mất khi con người ý thức được những việc mình làm.
I. SƠ LƯỢC TÌNH HÌNH NGÔI NHÀ CHUNG
Đã hơn 50 năm qua, những dự báo về thế giới trong Hiến chế Vui mừng và Hy vọng của Công đồng Vatican II vẫn còn mới mẻ. Hướng về tương lai Công đồng đã cho chúng ta thấy, bên cạnh những tiến bộ, con người đang đối diện với những thay đổi liên tục ngày càng nhanh, ảnh hưởng lên nhân loại và dần biến hành tinh này ngày càng trở nên bệnh hoạn. “Những thay đổi được tạo thành do sự thông minh và hoạt động sáng tạo của con người đang trở lại ảnh hưởng trên chính con người, trên những phán đoán và ước vọng cá nhân hay tập thể nhân loại, trên cách suy tư và hành động đối với vạn vật cũng như đối với con người”.[3] Thay đổi là điều cần thiết, nhưng nó lại trở thành một mối lo khi nó gây hại cho ngôi nhà chung của chúng ta.
Trong phần này chúng ta dừng lại để tìm hiểu về những thay đổi dẫn đến những khủng hoảng đang diễn ra trong thế giới hiện đại, “không phải để thu thập thông tin hoặc làm thoả mãn trí tò mò, nhưng để nhận thức và can đảm chuyển điều đang diễn ra cho thế giới thành nỗi đau của cá nhân và khám phá điều mỗi người chúng ta có thể làm được cho thế giới”.[4]
1. Một nền văn hóa lãng phí
Trong chương đầu tiên của thông điệp Laudato Si’, Đức Giáo hoàng Phanxicô ngay lập tức đã nêu bật những rủi ro của một nền văn hóa lãng phí đang hiện diện trong xã hội đương đại, đó là nền văn hóa tiêu thụ và vứt bỏ. Không giống như hệ sinh thái tự nhiên, mọi sinh vật trong trật tự tự nhiên, có thể trở thành nguồn năng lượng lớn lao cho thế hệ tương lai, nhưng ngược lại “chúng ta đã không tìm cách áp dụng một mô thức tuần hoàn của việc sản xuất có khả năng bảo tồn các nguồn lực cho hiện tại và cho các thế hệ tương lai, giới hạn càng nhiều càng tốt việc sử dụng các nguồn không thể tái tạo, điều tiết việc tiêu thụ, tối đa hoá việc sử dụng hiệu quả, tái sử dụng và tái chế chúng”.[5] “Những vấn đề này có liên hệ mật thiết với nền văn hoá loại bỏ đang ảnh hưởng đến người bị loại trừ khi nó nhanh chóng giảm thiểu mọi thứ thành rác rưởi”.[6] Thực vậy, hiện nay ngành công nghiệp và chất thải, thay vì được xử lý cách hiệu quả chính xác, chúng thường được chôn lấp nơi các bãi rác, thải ra sông ngòi, đổ ra biển hoặc nơi nào đó “bí ẩn” mà không có một tiêu chuẩn hay qui tắc nào để xử lý cách thích hợp.
Trong một bài báo về “Thực trạng rác thải nhựa ở Việt Nam – những con số đáng báo động”, số ra ngày 04.05.2020, tập đoàn An Phát Holdings cho biết :
“Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, mỗi tháng, mỗi gia đình sử dụng đến 1kg túi nilon. Ở những thành phố lớn như Hà Nội và Hồ Chí Minh, số lượng rác thải nhựa mỗi ngày thải ra môi trường lên tới 80 tấn.
Còn theo thống kê của Hiệp hội nhựa Việt Nam thì trong khoảng thời gian 1990 – 2015 số lượng tiêu thụ nhựa ở Việt Nam đã tăng lên chóng mặt, từ 3,8 kg/người/năm lên đến 41 kg/người/năm.
Trong khi đó, lĩnh vực xử lý và tái chế nhựa ở Việt Nam chưa phát triển, nên đa số rác thải được chôn lấp, đốt hoặc thải thẳng ra môi trường.
Đơn cử ở thành phố Hồ Chí Minh, trong 250.000 tấn rác thải nhựa thì có 48.000 tấn được đem đi chôn lấp, hơn 200.000 tấn được tái chế hoặc thải thẳng ra môi trường.
Còn theo ông Đặng Huy Đông, Nguyên Thứ trưởng Kế hoạch đầu tư cho rằng chỉ có 10% rác thải nhựa Việt Nam được đem đi tái chế, còn lại hơn 90% được đem đi chôn, lấp hoặc xả ra môi trường.
Những con số ở trên cho thấy tình hình rác thải nhựa ở Việt Nam thật đáng báo động, đòi hỏi chúng ta phải chung tay, nâng cao ý thức cá nhân mới có thể cùng nhau bảo vệ môi trường”.[7]
Trên thế giới, “sản lượng chất thải nguy hại ước tính khoảng 350 triệu tấn mỗi năm; 90% trong số này được sản xuất bởi các nước công nghiệp, trong đó các nhà sản xuất chính là Hoa Kỳ và Châu Âu”[8].
2. Biến đổi khí hậu
Biến đổi khí hậu toàn cầu đã hủy hoại và thiệt hại ngày càng gia tăng cho nông nghiệp, hoang mạc và động vật; mực nước biển dâng cao và những cơn bão ngày càng mạnh, kéo theo nó những thứ tồi tệ hơn. Bệnh tật và những vi sinh vật gây ảnh hưởng, tác động đến cuộc sống mà chúng ta không hề biết trước. Đó là “vấn đề mang tính toàn cầu với những hệ quả nghiêm trọng đến môi trường, xã hội, kinh tế, chính trị và đối với việc phân phối các loại hàng hoá. Nó đại diện cho một trong những thách đố chính mà nhân loại ngày nay đang đối diện”[9].
Nếu khí hậu là một phúc lợi chung, thuộc về tất cả mọi người, thì tác động nặng nề nhất của sự biến đổi đó rơi vào những người nghèo nhất, “là những người sau đó bị buộc phải rời khỏi quê hương của họ, với một tương lai bấp bênh cho họ và con cái. Số lượng đông đảo người di dân gia tăng cách bi đát, họ đi tìm cách thoát khỏi sự nghèo nàn ngày càng tăng do suy thoái môi trường tạo ra. Họ đã không được các tổ chức quốc tế nhìn nhận là những người tị nạn; họ mang lấy sự mất mát cuộc sống mà họ phải bỏ lại phía sau, mà không được hưởng bất kỳ một sự bảo vệ pháp lý nào”.[10]
Nếu một số vùng lãnh thổ ven biển chìm trong nước, nếu một số vùng lãnh thổ trở nên khắc nghiệt có nguy cơ bị sa mạc hóa, thì đó không phải là vấn đề đối với những người có nguồn lực kinh tế, quyền lực hay thể chế chính trị. Trái lại, nó trở thành vấn đề đối với những người đã khó khăn nay càng trở nên khó khăn hơn.
3. Nguồn nước thiếu thốn và ô nhiễm
Trong mối quan hệ phức tạp giữa con người và trái đất, nước luôn đóng một vai trò quan trọng. Về vấn đề này thông điệp cho biết: “Ngay cả khi nguồn nước chất lượng có sẵn đang liên tục thiếu thốn, thì ở một số nơi lại có xu hướng gia tăng tư hữu hoá nguồn nước, bất chấp sự khan hiếm nước, biến nó thành một món hàng hoá chịu sự chi phối của các quy luật thị trường. Mặc dù việc tiếp cận nguồn nước uống an toàn là quyền căn bản và phổ quát của con người, vì nó thiết yếu cho sự tồn tại của con người, và như thế, nó là một điều kiện cho việc thi hành các quyền khác của con người”.[11]
Tại vùng đồng bằng sông Cửu long trong những năm qua đã có những thay đổi nghiêm trọng về khí hậu, nguồn nước gây thiệt hại không nhỏ cho đời sống dân cư ở đây.
Theo một báo cáo của tổng cục phòng chống thiên tai, ngày 02.03.2020, cho biết: Mùa mưa năm 2019 trên lưu vực sông Mê Kông xuất hiện muộn, thời gian mùa mưa ngắn, tổng lượng dòng chảy năm chỉ ở mức trung bình – thấp. Dòng chảy về Đồng bằng từ đầu mùa khô đến nay giảm nhanh, đang xuống ở mức rất thấp so với tài liệu trung bình nhiều năm từ 1980 đến nay.
Thời gian thiếu mưa kéo dài kết hợp với việc sử dụng và khai thác tài nguyên nước trong lưu vực (tăng sử dụng nước trên các dòng nhánh và trữ nước tại các đập) sẽ làm cho tình trạng hạn hán, thiếu nước, xâm nhập mặn kéo dài hơn và trở nên trầm trọng hơn.[12]
Vì nguồn nước uống và sinh hoạt khan hiếm cho nên “hiện nay một số nơi ở Đồng bằng sông Cửu long, nước sinh hoạt đang có giá lên đến 200.000 đồng/khối (mức giá cao gấp hàng chục lần so với giá nước sinh hoạt ở đô thị)”.[13]
Các nhà nghiên cứu khí hậu gọi sự chú ý đến sự khan hiếm nước là nơi sản sinh ra sự man rợ, trong đó những người mong manh nhất, thậm chí còn trở nên mong manh hơn.
4. Mất đa dạng sinh học
“Tất cả các loài thụ tạo đều có liên hệ với nhau, mỗi loài phải được nuôi dưỡng bằng tình yêu và sự tôn trọng, vì tất cả chúng ta là những sinh vật sống lệ thuộc vào nhau”.[14] Đức Giáo hoàng cho thấy một hình ảnh về vũ trụ hướng đến một cái nhìn hài hòa và liên kết với nhau trong mọi sáng tạo. Các loài vật khác nhau trong vũ trụ không chỉ là tài nguyên có thể khai thác : chúng có một giá trị nội tại mà không theo con người. Tuy vậy, thực tế đang diễn ra khắp nơi trên thế giới, “mỗi năm đều thấy sự biến mất của hàng ngàn loại động thực vật khác nhau mà chúng ta chưa bao giờ biết đến, con cái của chúng ta không bao giờ thấy, vì chúng đã bị mất đi vĩnh viễn. Đại đa số bị tuyệt chủng vì những lý do liên quan đến hoạt động của con người”.[15]
Trái đất đang bị đẩy đến ‘một bước ngoặt của tuyệt chủng về loài’, lần thứ sáu trong lịch sử nửa tỷ năm qua. Người ta ước tính rằng từ 1500 đến 1850, cứ sau 10 năm một loài sẽ bị xóa sổ. Từ năm 1850 đến 1950, mỗi năm một loài biến mất. Từ năm 1990 một ngày một loài bị diệt chủng. Và với tốc độ này, vào năm 2000, một loài mỗi giờ sẽ biến mất.[16]
Giáo sư Alexandre Antonelli, giám đốc khoa học tại Vườn thực vật Hoàng gia Anh ở Kew, nói với BBC News: “Có bằng chứng rõ rệt là chúng ta mất đi các loài với tốc độ nhanh tới mức báo động”.
Tình trạng đó từng xảy ra vào khoảng 66 triệu năm trước, khi một khối thiên thạch đâm vào Trái Đất.
Lần này thì chính con người là thủ phạm.
Mức độ tuyệt chủng của các loài nay nhanh hơn 1000 lần so với thời gian loài người xuất hiện trên thế giới này, và trong tương lai, tốc độ biến mất của các loài sẽ còn tăng lên thêm 10 nghìn lần.
Khu vực có sự phong phú đặc biệt về chủng loài trong tự nhiên là châu Phi, và lục địa này đang ở vào tình trạng đáng lo ngại đặc biệt, nhất là vì châu lục này là nơi duy nhất còn các động vật có vú thuộc nhóm to lớn.
IPBES[17] công bố năm 2018 một nghiên cứu cho hay hoạt động của con người đã và đang khiến cho một nửa chim và thú tại châu Phi bị tuyệt chủng vào năm 2100.
Vẫn nghiên cứu này cho thấy 42% động thực vật trên đất liền ở châu Âu và Trung Á đã bị tàn lụi đi chỉ trong 10 năm qua”.[18]
5. Môi trường bị hủy hoại
Sự tích tụ đáng kinh ngạc chất thải hóa học, kim loại nặng, sinh học và hạt nhân được phát hiện ở nhiều khu vực, dẫn đến những bệnh dịch về môi trường, rõ ràng nhất là gia tăng của bệnh ung thư, các vấn đề về hệ thống miễn dịch, dị tật bẩm sinh.
Từ việc lạm dụng hóa chất nông nghiệp và phá rừng làm giảm đi sự phong phú của đất đai, đe dọa nền sản xuất lương thực trên khắp các quốc gia đang phát triển, dẫn đến việc sa mạc hóa khắp nơi.
6. Chất lượng sống của con người bị suy giảm.
Sự suy giảm môi trường sống qua việc mở rộng các khu định cư, khai thác gỗ, quặng mỏ, nông nghiệp và giết hại các động vật vì thể thao, hay sử dụng như thực phẩm hằng ngày đã làm tăng thêm tỷ lệ tuyệt chủng. Tiềm lực y học biến mất, hệ sinh thái bất ổn, nguồn cung cấp nước bị đe dọa và vẻ đẹp tự nhiên vĩnh viễn không còn. Thành phố bị ô nhiễm do khí thải độc hại, giao thông, âm thanh, thị giác tất cả đều hỗn loạn. Mô hình phát triển này ảnh hưởng rất nhiều đến cuộc sống của con người. Điều đó cho thấy rằng “sự phát triển của hai thế kỷ vừa qua không toàn diện và không thăng tiến phẩm chất của đời sống. Một số những dấu hiệu này cũng là triệu chứng của suy thoái xã hội thực sự, âm thầm bẻ gãy những mối dây liên kết của sự toàn diện và thống nhất xã hội”.[19] “Nhiều thành phố rất lớn lại có cấu trúc không hiệu quả, gây lãng phí quá nhiều nguồn năng lượng và nước. Những vùng phụ cận, ngay cả những vùng mới xây dựng cũng chật chội, hỗn loạn và thiếu không gian xanh. Chúng ta không được sinh ra để bị bao trùm bởi bê tông, nhựa đường, thuỷ tinh, kim loại, và bị tước mất mối tương giao về mặt thể lý với thiên nhiên”.[20]
7. Bất bình đẳng toàn cầu
Suy thoái môi trường và xã hội tác động đến những người bị tổn thương nhất trên hành tinh này. “Người nghèo khổ phải hứng chịu những tác động nghiêm trọng nhất của tất cả mọi cuộc tấn công vào môi trường […] Cạn kiệt nguồn dự trữ cá gây tổn hại đặc biệt đến các cộng đồng đánh bắt nhỏ không có phương tiện để thay thế những nguồn này; tình trạng ô nhiễm nước đặc biệt tác động đến người nghèo là những người không thể mua nước đóng chai; và mực nước biển dâng cao tác động chủ yếu trên những người dân sống ở ven biển đã bị khánh kiệt đến nỗi không còn nơi nào khác để đi”.[21] Thực ra những bất công xảy ra không chỉ liên quan đến một đơn vị duy nhất nào đó, nhưng là của toàn thể cộng đồng nhân loại, ở đó chúng ta có thể nghe được cả “tiếng than khóc của trái đất và tiếng than khóc của người nghèo”. Điều đó mời gọi chúng ta xem xét lại các giá trị đạo đức trong các mối quan hệ quốc tế. Do đó cần phải sẵn sàng thay đổi lối sống, sản xuất và tiêu dùng.[22]
8. Phản ứng yếu kém của xã hội.
Một số quốc gia mới đây chỗi dậy lớn mạnh hơn về mặt kinh tế và chính trị. Tuy nhiên họ vẫn không thành công để thay đổi thói quen tiêu thụ đầy nguy hại lẽ ra phải giảm đi, chẳng hạn như tiêu thụ điện năng để chạy máy lạnh.[23] Mặt khác các thế lực kinh tế tiếp tục biện minh cho hệ thống toàn cầu hiện nay, ưu tiên cho việc đầu cơ và lợi nhuận tài chính mà không suy xét về bối cảnh để mặc cho chúng ảnh hưởng lên phẩm giá con người và môi trường thiên nhiên.[24] Lý do chính trị phải phục tùng kỹ thuật và tài chính, nguồn lợi kinh tế chỉ tập trung vào một số nhóm lợi ích, khuynh đảo thị trường bằng những “phù phép” có lợi mình. Những tuyên bố quan tâm đến môi trường chỉ mang tính hời hợt, giả tạo và ảo tưởng, không đem lại ích lợi gì cho cộng đồng nhân loại. Những định hướng về kinh tế theo hệ thống toàn cầu mang đến lợi ích về kinh tế nhưng gây ra những hậu quả trên phẩm giá con người và môi trường.
“Vấn đề là chúng ta vẫn thiếu nền văn hoá thích hợp để đối diện với cơn khủng hoảng này. Chúng ta thiếu sự lãnh đạo có khả năng vạch ra những con đường mới, đáp ứng những nhu cầu hiện tại với sự quan tâm đến tất cả và không thành kiến đối với các thế hệ kế tiếp”.[25]
9. Khủng hoảng về mô hình
Một số khuynh hướng của thế giới ngày nay chịu ảnh hưởng bởi mô hình khoa học và kỹ thuật. Công nghệ trở thành mô hình nhận thức khuôn mẫu của nhiều cá nhân và hoạt động xã hội. Chúng tạo một mạng lưới, cuối cùng tạo cách sống cho con người, định hướng cho mọi khả năng xã hội vào lợi ích của một nhóm thế lực được xác định.[26]
Về mặt cuộc sống hàng ngày, điều quan trọng là phải làm sao tích lũy một lượng lớn phương tiện, của cải vật chất, hàng hóa dịch vụ để tận hưởng đầy đủ trên hành trình ngắn ngủi của cuộc sống trần gian. Để đạt được mục đích này con người cần đến sự hỗ trợ của khoa học và công nghệ, hoạt động dựa trên lợi ích của con người. Và càng dễ hiểu khi người ta cố gắng bỏ ra một khoản đầu tư tối thiểu để trong một thời gian ngắn nhất có thể đạt được mức lợi nhuận tối đa. Do đó, các nhà đầu tư đã cổ xúy việc tiêu thụ sản phẩm đến mức tối đa, lôi kéo mọi người vào cơn lốc mua sắm và tiêu xài đến không cưỡng được. Kiểu tiêu thụ này, theo Romano Guardini, là do ảnh hưởng của mô hình kinh tế – kỹ thuật lên các cá nhân. “Công chúng dễ dàng chấp nhận những điều tầm thường và hình thức sống do máy móc kỹ thuật áp đặt, họ cho rằng sự tương đồng vừa hợp lý vừa công bằng. Mô hình này làm cho người ta tin rằng họ thực sự tự do bao lâu họ được tự do tiêu thụ, nhưng thực tế cho thấy điều này chỉ có nơi một số ít người đang nắm giữ quyền lực kinh tế và tài chính”.[27]
Sơ lược qua một vài tiêu điểm giữa cuộc khủng hoảng được nêu ra trong tông huấn Laudato Si’, dù không đầy đủ, nhưng qua đó cho thấy hành tinh của chúng ta, ngôi nhà chúng ta đang sống đang kêu khóc vì chúng ta đã tiêm nhiễm vào đó những mối nguy qua cách sử dụng vô trách nhiệm và lạm dụng của cải vật chất Thiên Chúa ban tặng.[28]
Ngoài những biến đổi theo định luật tự nhiên, tác nhân chính yếu của những “tiếng kêu gào” tất cả đều xuất phát từ con người, vì chúng ta tự xem mình là chủ nhân của trái đất này và muốn bóc lột ra sao tùy ý. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi này, và qua đó nó đòi hỏi con người phải thay đổi cách sống và những ảnh hưởng của mình trên thế giới.
Mô hình công nghệ toàn cầu, một trong những nguyên do dẫn đến những biến đổi trên. Có thể nói nền văn hóa kỹ trị đang chi phối cuộc sống của con người và hành động của con người trong thế giới[29], đang có xu hướng hấp thụ mọi thứ vào chính nó ngay cả các mối tương quan của chúng ta cùng với thân xác của chúng ta.
II. MÔ HÌNH CÔNG NGHỆ TOÀN CẦU
Trong thông điệp Laudato Si’, Đức Giáo hoàng Phanxicô phê bình “mô hình công nghệ” khuyến khích các hình thức ảo tưởng của chủ nghĩa nhân học và công cụ hóa người khác. Những lo ngại của Đức Giáo hoàng về khoa học kỹ thuật nằm rải rác trong thông điệp và được xem như là một trong những “nguồn gốc của cuộc khủng hoảng sinh thái”.
1. Vai trò của công nghệ: từ sáng tạo đến quyền lực
Chúng ta đang trải qua một kỷ nguyên mới, một quá trình mà sức mạnh của ý thức hệ về khoa học kỹ thuật đang dẫn chúng ta đến một trong những giao điểm lớn nhất đối với sự tồn tại của con người. Thật không quá lời khi lặp lại rằng chính khoa học công nghệ giúp giải quyết rất nhiều giới hạn của cuộc sống con người. Làm sao chúng ta không nhận ra được một số nỗ lực đã góp phần đem lại nhiều ích lợi cho cuộc sống.
Lịch sử gần đây của ngành y học có rất nhiều những phát triển tích cực. Chưa kể đến ngành công nghệ sinh học, robot, công nghệ nano, chúng ta không thể bỏ qua những khám phá tuyệt vời về ADN, hoặc những kỹ thuật công nghiệp khác như “ngành công nghiệp hoá chất, y học hiện đại, công nghệ thông tin và gần đây hơn là cuộc cách mạng số, người máy”.[30] Tuy nhiên chúng ta không ngừng đặt ra câu hỏi về những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ đang phục vụ cho thế lực nào, làm giàu cho nhân loại hay đang khiến cho nhân loại ngày càng nghèo đi? Tất cả sức mạnh này nằm trong đôi tay của ai và liệu nó sẽ kết thúc thế nào?
Chúng ta không thể quên hai trái bom nguyên tử đã thả xuống Hiroshima và Nagasaki, ngày 6 và 9 tháng 8 năm 1945, mà nhiều người cho rằng đó là nỗi xấu hổ lớn nhất của thế kỷ 20, khi công nghệ phục vụ cho một chế độ toàn trị.
Chúng ta cũng thể không nhắc đến con Covid-19 đang làm chao đảo cả thế giới, lây lan cho hàng triệu người, giết chết hàng trăm nghìn người và con số mỗi ngày mỗi tăng. Cho đến nay vẫn chưa biết được chính xác nó đến từ đâu và vì lý do gì, hay nó là sản phẩm của công nghệ sinh học trong một cuộc chiến đang khi diễn ra giữa các cường quốc kinh tế, đặc biệt giữa Mỹ và Trung quốc?
Trong bối cảnh hiện tại, chúng ta không thể nhầm lẫn sức mạnh công nghệ liên quan đến việc tăng cường an ninh như giám sát dân sự. Dường như thế giới này đang sống trong một chương trình thực tế rộng lớn, bị mắc kẹt trong các bức tường bao quanh bởi dây điện, máy móc, các thiết bị theo dõi an ninh liên quan đến công nghệ hiện đại, tất cả được hợp thức hóa bởi ý tưởng sợ hãi. Mức độ an toàn của bản thân vì thế cũng bị đe dọa.[31] Không thể nào có được hạnh phúc đang khi cuộc sống ẩn giấu trong nỗi sợ hãi và khủng bố có thể xảy ra bất cứ lúc nào.
Như Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nói, vai trò của khoa học và công nghệ đã đưa sự sáng tạo của con người lên một tầm cao mới. Công nghệ có thể tạo ra kết quả tốt cho một đất nước hay tập thể. Điều này tùy thuộc vào mức độ trung thực và ý định tốt của người tạo ra nó như một phương tiện phù hợp với con người. Đối với ngài chúng ta không thể tránh được câu hỏi: công nghệ tập trung hay tập thể hóa? Nó phục vụ cho mục đích kinh tế thuần túy hay để giải phóng con người.
Mối quan tâm của Đức Giáo hoàng chính là việc đồng hóa giữa tiến bộ và quyền lực. Vì nhiều người cho rằng mọi gia tăng về quyền lực có nghĩa là gia tăng sự tiến bộ. “Tuy nhiên nguy cơ con người không sử dụng đúng quyền lực của mình đang tăng từng ngày. Trong thực tế, quyền lực không bao giờ theo tiêu chuẩn của chọn lựa tự do, nhưng theo tiêu chuẩn tiện nghi hoặc an toàn”.[32]
Gianluigi Gigli chủ tịch phong trào vì sự sống của Ý đã đề cập đến bức tranh toàn cầu mà xã hội ngày nay phải đối mặt: “Không có gì khác ngoài thách thức của công nghệ, khác với khoa học, nó không hề trung lập. Khoa học đưa chúng ta đến gần sự thật hơn, từng mảnh một; công nghệ có xu hướng sử dụng sự thật này, đôi khi như một sự thực thi quyền lực chứ không như một dịch vụ. Vì thế, chúng sẽ trở thành những mối lo liên quan đến cuộc xâm lược công nghệ trong các lĩnh vực đầu và cuối của cuộc sống để chiếm hữu chúng ta”.[33]
Đó là lý do tại sao Đức Phanxicô cho rằng sự tự do quá mức của quyền lực công nghệ như một công cụ bệnh hoạn, nhất là đầu hàng trước những thế lực mù quáng và vô thức, những nhu cầu vô ích, nền văn minh ích kỷ và bạo lực.
2. Rủi ro của toàn cầu hóa mô hình công nghệ
Theo Đức Giáo hoàng, với việc toàn cầu hóa mô hình công nghệ trong bối cảnh phê phán như một thực tế sai lầm, lấy con người làm trung tâm thì một phương pháp khoa học hay “thử nghiệm” tự nó là một kỹ thuật chiếm hữu, làm chủ và biến đổi. Và với “khả năng chi phối vô hạn trên mọi sự, chắc chắn chúng sẽ gây tổn hại cho xã hội và môi trường”.[34]
Về vấn đề này ngài vạch ra cho chúng ta thấy mối nguy hiểm của mô hình kỹ trị, thay vì chịu sự chi phối của con người, trái lại nó đóng vai trò chính trong việc điều hướng, làm chủ, chiếm hữu và biến đổi. Khi những tác động này áp đặt lên toàn bộ thực tại, con người và xã hội, thì những sản phẩm của công nghệ không trung dung[35] này tạo ra một khuôn khổ sẽ điều kiện hoá lối sống và định hình những khả năng xã hội đi theo dòng chảy do lợi ích của những nhóm thế lực đề ra. Các quyết định có vẻ như hoàn toàn mang tính công cụ thì trong thực tế lại là những quyết định về mô hình xã hội mà chúng ta muốn tạo nên.[36]
Mô hình kỹ trị thống trị đến nỗi thật khó để thực hiện bất cứ công việc gì nếu không có các nguồn lực của nó hoặc không theo logic nội tại của mô hình đó. Sức mạnh của nó bao vây toàn bộ cuộc sống con người đến nỗi khó có thể chọn lựa một lối đi độc lập, dù chỉ một phần khỏi công nghệ. Hậu quả là khả năng quyết định, tự do và không gian sáng tạo của mỗi người bị giảm thiểu rất nhiều.
2.1. Kinh tế – xã hội – chính trị
Mô hình này còn có khuynh hướng thống trị cả đời sống kinh tế và chính trị, khi chấp nhận mọi tiến bộ trong công nghệ miễn là đem lại lợi nhuận mà không quan tâm gì đến môi trường và những ảnh hưởng tiêu cực đến người nghèo. “Một số nhóm người vẫn cho rằng nền kinh tế và công nghệ hiện tại sẽ giải quyết mọi vấn đề của môi trường, nói chung là các vấn đề về đói nghèo toàn cầu sẽ được giải quyết đơn giản bằng sự tăng trưởng thị trường”.[37] Dĩ nhiên, một thị trường muốn tồn tại và duy trì tính dân sự thì không thể bỏ qua sự đa dạng của các hình thức kinh doanh và lợi nhuận. Tuy nhiên, chính thị trường đã tạo ra sự bất bình đẳng mà mô hình kỹ trị làm cho xu hướng đó trở nên trầm trọng hơn. Thị trường tạo ra những bất công khi nó trở thành qui luật duy nhất gần như được thần thánh hóa.
Mối liên hệ giữa mô hình kỹ trị và việc theo đuổi lợi nhuận là nguồn gốc của những bất công và tạo ra một nền văn hóa vứt bỏ: chúng ta vứt bỏ những gì được coi là vô giá trị vì nó không còn khả năng tạo ra lợi nhuận, bất kể giá trị nội tại của nó là sinh vật hay con người. Lãng phí là cái tên gắn kết với những đồ vật vô dụng, những sản phẩm lỗi thời, những khu công nghiệp bị bỏ hoang và ô nhiễm, người lao động cao tuổi bị trục xuất khỏi thị trường lao động hoặc những người trẻ tuổi không thể tiếp cận được. Kết quả là sự bấp bênh và bị loại trừ, thậm chí còn tồi tệ hơn sự bóc lột đó là: “Những người bị loại trừ không phải là những người ‘bị bóc lột’ mà là những người bị gạt ra ngoài, những ‘đồ thừa’”.[38]
Mặt khác, như đã đề cập ở trên, sự liên minh giữa kinh tế và công nghệ loại trừ bất cứ thứ gì không liên quan đến các lợi ích tức thời của nó.[39] Và các cấu trúc quyền lực mới đặt trên mô hình công nghệ – kinh tế sẽ lấn át không chỉ các thể chế chính trị mà còn cả sự tự do và công lý nữa.[40] Cho nên, khi xem công nghệ là chìa khóa chính của cuộc sống thì con người dễ dàng đầu hàng trước những hoàn cảnh chịu ảnh hưởng do chính nó gây ra. Bởi vậy “đã đến lúc phải canh tân sự chú tâm đến thực tại và những giới hạn nó áp đặt; đây là một điều kiện cho sự phát triển cá nhân và xã hội lành mạnh và phong phú hơn”.[41]
3. Công nghệ và sinh thái
Theo Đức Giáo hoàng các hình thức ô nhiễm khác nhau do ngành công nghệ đang xảy ra từng ngày. Công nghệ mới tạo điều kiện dễ dàng cho mọi sinh hoạt của con người nhưng nó cũng dẫn đến nhiều tác hại cho môi trường, mất đa dạng sinh học, động đất, sạt lỡ, sa mạc hóa, bệnh tật về tâm lý và thể lý…
Người ta bị bệnh do phải hít thở một lượng khói lớn từ các nhiên liệu dùng trong nấu nướng hay sưởi ấm. Cũng có loại ô nhiễm làm ảnh hưởng đến mọi người, do các phương tiện giao thông và khí thải công nghiệp, những chất thải góp phần axít hoá đất đai và nguồn nước, các loại phân bón, thuốc trừ sâu, thuốc diệt nấm, thuốc diệt thực vật và thuốc diệt cỏ nói chung”.[42]
Thực tế sự phát triển của khoa học công nghệ đi kèm theo nhu cầu tiêu thụ nguồn năng lượng: điện năng, xăng dầu, khí gas… Mục đích của nó là để gia tăng tốc độ sản xuất của các sản phẩm cho thị trường. Tuy nhiên tác hại của nó để lại cho môi trường không hề nhỏ. Hiện tại hàng trăm triệu tấn rác thải được sản xuất mỗi năm, nhiều chất thải không phân hủy: chất thải thương mại và sinh hoạt, chất thải điện tử, phóng xạ và độc hại cao “từ các gia đình và cơ sở kinh doanh, từ các mảnh đất xây dựng và phá huỷ, từ các nguồn y tế, điện tử và công nghiệp”.[43] Đối với các ngành công nghệ mới, cả hệ thống máy tính và các bộ phận của nó đều chứa những vật liệu độc hại. Những linh kiện không dùng được bị loại bỏ ra ngoài, không tái chế. Tốc độ tiêu thụ, chất thải và thay đổi môi trường đã vượt quá khả năng của hành tinh này.
“Trái đất, căn nhà của chúng ta, đang càng ngày càng giống như một cột bao la các thứ rác rến. Ở nhiều nơi trên hành tinh, người già than thở vì các phong cảnh đẹp bị rác rưởi bao phủ. Chất thải công nghiệp và các sản phẩm hoá học được sử dụng ở các thành phố và các vùng nông nghiệp lớn có thể dẫn đến việc tích tụ sinh học nơi cơ thể của người dân địa phương, thậm chí cả khi mức độ độc hại ở những nơi này thấp. Thông thường chẳng có phương thế nào được áp dụng cho đến khi sức khoẻ của người dân đã bị ảnh hưởng không thể cứu vãn”.[44]
Sự phát triển vô hạn độ của các nhà máy thủy điện làm mất đi phần lớn đất đai dành cho canh tác nông nghiệp và việc khai thác rừng để phục vụ cho nhu cầu đời sống làm ảnh hưởng đến bầu khí quyển, ảnh hưởng đến sự sinh tồn của con người và các động vật hoang dã. Một điều rất nực cười khi chứng kiến xã hội con người đang sống trong cái vòng luẩn quẩn do chính mình tạo nên: Người ta chặt phá rừng, phun chất độc trừ sâu, ngăn sông lấp biển, khai thác quặng mỏ như bôxít, titan, thải chất độc lên rừng, ra biển, sông ngòi chỉ vì lợi nhuận, cho tới khi môi trường bị hủy hoại và ô nhiễm, con người liền tìm đến những nơi sinh thái khác để nghỉ dưỡng bằng chính lợi nhuận kiếm được từ những việc làm trên.
Người ta cho rằng “công nghệ, thứ gắn liền với những lợi ích kinh doanh, được xem là cách duy nhất để giải quyết những vấn đề này, nhưng thực ra chúng ta không thấy hết được mạng lưới bí ẩn trong các mối tương quan và vì thế giải quyết một vấn đề này lại tạo ra nhiều vấn đề khác”.[45]
Từ những điều trên cho thấy, khi không “áp dụng một mô thức tuần hoàn của việc sản xuất có khả năng bảo tồn các nguồn lực cho hiện tại và cho các thế hệ tương lai”[46] thì khả năng mọi thứ dần biến mất, trái đất biến thành một bãi rác khổng lồ và bệnh hoạn là điều không thể tránh khỏi. “Thật lầm lạc khi quan niệm rằng luôn sẵn có một nguồn năng lượng và nguồn tài nguyên vô biên, có thể tái tạo cách nhanh chóng, và những tác động tiêu cực của việc khai thác trật tự thiên nhiên có thể được hoá giải cách dễ dàng”.[47]
4. Công nghệ và khoa sinh học
Thế kỷ 21 được gọi là thế kỷ của ngành công nghệ sinh học, nó tạo ra bước đột phá về khả năng biến đổi Gen, chỉnh sửa ADN, trong đó đặc biệt chú trọng đến ứng dụng chăm sóc sức khỏe, điều trị các căn bệnh nguy hiểm cũ và mới, tạo ra một số bộ phận thay thế nơi cơ thể con người; sản xuất vắc-xin, dược phẩm đem lại hiệu quả lớn lao trong việc chữa trị; tạo ra các sản phẩm sinh học phục vụ trong việc chế biến thực phẩm nuôi trồng thủy sản có năng xuất và chất lượng cao; giúp thúc đẩy an ninh lương thực ở các nước đang phát triển và cũng giúp xóa đói giảm nghèo dựa trên biến đổi gen…[48]
Liên quan đến vấn đề này, một mặt Giáo hội thừa nhận “khoa học và công nghệ là những sản phẩm kỳ diệu của sự sáng tạo nhân loại Thiên Chúa ban tặng”[49]; mặt khác Giáo hội cũng nêu lên những mối nguy hiểm khi áp dụng công nghệ sinh học vào trong thực tế khiến “chúng ta quên mất giá trị bất khả xâm phạm của con người và coi thường các nguyên tắc đạo đức cao cả”.[50] Nghĩa là khi áp dụng vào việc phục vụ con người nó cũng gây ra không ít những tranh cãi sôi nổi như vấn đề thụ tinh nhân tạo, vứt bỏ phôi thai, nhân bản vô tính, quyết định sự sống con người khi còn là bào thai…
Đức Giáo hoàng danh dự Bênêđictô XVI đã nhận xét: Nếu cho rằng những tiến bộ mới do công nghệ sinh học và y học đem lại, cũng như việc chọn lựa xứng đáng được sống hay chết mà không dẫn đến những thao túng phẩm giá con người là không đúng. Những khả năng mới của công nghệ sinh học và y học thường đặt chúng ta vào những tình huống khó khăn giống như đi trên sườn núi. Chúng ta không thể bác bỏ những diễn biến này, nhưng chúng ta phải hết sức cảnh giác.[51] Vì vậy, những đổi mới trong khoa học có thể là mối nguy hiểm cao độ, đặc biệt là đối với sinh học. Đổi mới khoa học, “khi việc ấy vẫn ở trong những giới hạn hợp lý [và] góp phần vào việc chăm sóc và cứu mạng sống con người”.[52] Tuy nhiên, công nghệ khi được ứng dụng về mặt di truyền, dù trong nông nghiệp, công nghiệp, kinh tế hay trong việc vận dụng cuộc sống, đòi hỏi phải phải ưu tiên phẩm giá và đạo đức, bởi vì “một nền công nghệ tách lìa khỏi đạo đức thì sẽ không thể hạn chế quyền lực của nó”.[53] Như Jonas cảnh báo rằng: nếu chúng ta có được quyền thao túng di truyền, chúng ta sẵn sàng thực hiện vai trò của người sáng tạo. Theo ông, điều này có thể đem lại việc sở hữu một sức mạnh chết người.[54]
5. Công nghệ và tiến bộ đạo đức
Nhân loại đã bước vào một kỷ nguyên mới, trong đó trình độ chuyên môn kỹ thuật đưa chúng ta đến một bước ngoặt lớn. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã thừa nhận những lợi ích tốt đẹp của khoa học kỹ thuật, giúp cải thiện chất lượng cuộc sống, từ các đối tượng được sử dụng trong gia đình cho đến những phương tiện giao thông, những cây cầu, nhà cửa, những nơi công cộng được thiết kế chu đáo. Nhờ áp dụng kỹ thuật mới đã cho ra đời nhiều tác phẩm mỹ thuật và âm nhạc.[55] Tuy nhiên, theo Đức Đức Giáo hoàng, chủ thuyết nhân bản tân tiến tập trung vô độ vào con người, cuối cùng đi đến nghịch lý vì đã đặt lý luận kỹ thuật lên trên thực tế. Công nghệ kỹ thuật đã tạo ra một cơ chế nơi chúng ta, không còn nhìn thiên nhiên dưới một định kiến thích hợp như không gian và chất liệu cho một công trình, mà làm cho thiên nhiên trở thành những sự thật vô hồn, vô nghĩa, có thể quăng đi, không cần biết kết quả như thế nào.
Đức Giáo hoàng cảnh báo việc gia tăng sức mạnh và quyền lực nhờ khoa học kỹ thuật không tạo nên sự tiến bộ thực sự, vì nó “không đi cùng với sự lớn lên về trách nhiệm, các giá trị và lương tâm con người”.[56] Không tiến bộ về mặt đạo đức, chúng ta rất dễ bị tổn thương trước những xung đột, bạo lực và những tư lợi của chúng ta và của người khác. Theo ngài nghịch lý ở đây chính là lấy khoa học kỹ thuật làm trung tâm, cuối cùng chính những điều đó gây thiệt hại cho bản thân. “Chúng ta thật trần trụi và phơi bày ra trước quyền lực ngày càng tăng của chúng ta, nhưng lại thiếu điều cần thiết để kiểm soát nó. Chúng ta có những cơ chế bề ngoài nhất định, nhưng chúng ta không có một nền đạo đức, một nền văn hoá và linh đạo có ý nghĩa đúng đắn có thể đặt ra những giới hạn và dạy cho chúng ta sự giới hạn bản thân cách rõ ràng”.[57]
Công nghệ “ly dị” với đạo đức, bởi nó “coi thường các nguyên tắc đạo đức cao cả”, mà vẫn được xem như những thực hành hợp pháp[58], “không tôn trọng những nguyên tắc vốn đòi hỏi giới hạn nhất định trong việc nghiên cứu khoa học cho sự sống con người”.[59]
Cuối cùng chúng ta có thể nhìn thấy một kết quả, gắn liền với chủ thuyết tương đối và cá nhân, con người chiếm đoạt vị trí của Chúa, tôn thờ các quyền lực trần gian. Khi những điều đó vượt ra khỏi linh đạo coi Thiên Chúa là Đấng sáng tạo duy nhất của thế giới, “thậm chí đến mức công bố một quyền vô hạn để chà đạp lên công trình tạo dựng của Ngài”[60], thì con người sẽ luôn tìm cách áp đặt luật lệ và lợi ích của họ trên thực tại.
5. Công nghệ thông tin
Sự thay đổi từ công nghệ cơ học sang công nghệ thông tin kỹ thuật số vào giữa thế kỷ 20, không chỉ làm sống lại chủ nghĩa tư bản mà còn sửa đổi bản sắc toàn cầu thông qua mối quan hệ mới được thiết lập. Mạng xã hội Facebook, Zalo, Tik Tok…. đang khi cố gắng toàn cầu hóa tất cả các mối quan hệ đã làm ảnh hưởng đến bản sắc văn hóa. Và “khi thế giới truyền thông, kỹ thuật số có mặt ở khắp nơi, sức ảnh hưởng của nó có thể làm cho con người không còn học cách sống khôn ngoan, suy nghĩ sâu sắc và yêu thương cách quảng đại nữa”.[61]
Cách đây không lâu trong Tông huấn Christus Vivit, Đức Giáo hoàng Phanxicô đã nhấn mạnh đến thế giới kỹ thuật số như nét đặc trưng của xã hội đương thời. Ngài thừa nhận Internet và các mạng xã hội đã tạo ra một cách thức mới để truyền thông và thiết lập tương quan, tạo nên một cơ hội đặc biệt để đối thoại, gặp gỡ và trao đổi với nhau, tham gia chính trị, cũng như để tiếp cận thông tin và tri thức, bảo vệ những người yếu thế bằng hành vi vạch trần trên mạng.[62] Tuy nhiên, nền văn hóa này tác động đến không gian và thời gian, lên cách nhận thức về bản thân, về tha nhân và thế giới, lên cách giao tiếp và học hỏi, cách tìm hiểu thông tin và cách tương quan với người khác.[63] Nó khiến con người phải lệ thuộc, bị cô lập và mất dần tiếp xúc với đời sống cụ thể, cản trở mối quan hệ đích thực giữa người với người. Nó cổ võ các hình thức bạo lực, tra tấn tinh thần, làm suy đồi văn hóa và đạo đức.
Dưới góc độ môi trường, công nghệ thông tin cũng tác động đến môi trường khi các công cụ chuyên dùng không còn được sử dụng do hỏng hóc hoặc trở thành phế thải khi phải nâng cấp hệ thống. Chắc chắc không phải tất cả những công cụ phế thải này được sử dụng như một năng lượng tái tạo, nhưng cách nào đó sẽ trở thành rác thải công nghiệp gây tác hại đến môi trường. Mặt khác, khi con người tập trung vào sử dụng công nghệ này, dẫn đến việc tiêu thụ nguồn năng lượng khổng lồ, góp phần vào sự nóng lên toàn cầu và tích tụ chất thải.
III. GIÁO HỘI TRƯỚC MÔ HÌNH CÔNG NGHỆ
Thông điệp Laudato Si’ cho chúng ta thấy được những lợi ích do khoa học và công nghệ mang lại. Đó là những sản phẩm kỳ diệu của sự sáng tạo, là ơn ban của Thiên Chúa, nhưng tự nó cũng tố cáo những rủi ro mà chúng ta phải đối mặt. Sự tự do mà chúng ta có được để phát triển khoa học và công nghệ phần nào đưa chúng ta vào hoàn cảnh nô lệ, đến nỗi câu hỏi không còn là “chúng ta có thể làm gì với khoa học và công nghệ” mà là “khoa học và công nghệ có thể làm gì cho chúng ta”.[64]
Cha Romano Guardini, thần học gia của thế kỷ XX, đã đặt ra những vấn đề liên quan đến mô hình công nghệ như một cuộc tự vấn lương tâm: Liệu con người có thể phát triển theo cách để cho sức mạnh kỹ thuật là những thứ do mình tạo ra thống trị mình không? Khoa học và công nghệ đem lại cho con người sức mạnh trên tự nhiên – trên chính cuộc sống của con người – một sức mạnh phát triển nhanh chóng hơn bao giờ hết. Nhưng sức mạnh đó có thể phát triển nhanh chóng và vươn cao đến mức nào và liệu con người có còn là con người đúng nghĩa không?
Chúng ta thường nghĩ rằng sự phát triển về công nghệ chỉ là đáp ứng cái logic nội tại trong thế giới công nghệ, vốn tuân theo các quy luật sản xuất công nghiệp nhằm thỏa mãn các nhu cầu về thị trường và tạo ra lợi nhuận. Tất nhiên chúng có những tác dụng thực sự có lợi trong nhiều trường hợp. Nhưng chúng ta quên rằng sức mạnh của công nghệ không phải luôn mang tính tích cực, nó cần được kiểm soát và định hướng. Nếu chúng ta bị cuốn vào nền kỹ thuật – công nghệ của chúng ta, thì cơ hội nào cho chúng ta để từ đó chúng ta vẫn còn là chính mình, là con người thực sự?
Hay như Bill Joy, khoa học gia người Mỹ, đã nhận xét: Sự kết hợp của công nghệ Robot, kỹ thuật di truyền, công nghệ nano tạo nên những hệ thống ngày càng phức tạp hơn, hoạt động của chúng có tác động hỗ tương và liên quan với nhiều bộ phận. Bất kỳ thay đổi nào đối với hệ thống này sẽ tạo ra các hiệu ứng tiếp nối nhau rất khó dự đoán; điều này đặc biệt đúng khi liên quan đến hành động của con người. Các công nghệ này mạnh mẽ đến nỗi chúng có thể làm gia tăng hàng loạt những tai nạn và lạm dụng hoàn toàn mới. Nguy hiểm hơn, những tai nạn và lạm dụng này phần lớn nằm trong tay các cá nhân hay một số nhóm nhỏ. Họ không yêu cầu cơ sở hạ tầng to lớn hoặc những nguyên liệu chính. Chỉ cần kiến thức cũng đủ để sử dụng được nó.[65]
Từ những vấn đề trên, qua nhiều giáo huấn khác nhau, ngoài việc vạch trần những khuyết điểm của mô hình kỹ thuật công nghệ, Giáo hội còn đề nghị những cách thức đổi mới để hành tinh mà chúng ta đang sống luôn được tôn trọng và được phục hồi với vẻ đẹp nguyên tuyền của nó.
1. Phương diện nghiên cứu khoa học
Phát biểu trước Ủy ban Quốc gia về An toàn Sinh học, Công nghệ Sinh học và Khoa học Đời sống, Đức Giáo hoàng Phanxicô đề cập đến nguyên tắc trách nhiệm, “nền tảng thiết yếu của hành động con người”, phải trả lời cho những hành động của mình ngay cả trước mặt Thiên Chúa. Theo ngài, công nghệ còn hơn cả khoa học, trao quyền quá lớn và ngày càng tăng vào tay con người. Rủi ro nghiêm trọng là người dân, và đôi khi ngay cả những người đại diện và quản lý chúng, không nhận thức được đầy đủ mức độ nghiêm trọng của những thách thức mà họ phải đối mặt, sự phức tạp của các vấn đề cần giải quyết, và nguy hiểm hơn khi sử dụng không đúng sức mạnh mà khoa học và công nghệ đặt vào tay chúng ta.
Đức Giáo hoàng khẳng định: không dễ dàng đạt được một tác phẩm hài hòa giữa các nhu cầu khác nhau về khoa học, sản xuất, đạo đức, xã hội, kinh tế và chính trị, đang thúc đẩy sự phát triển bền vững, tôn trọng ngôi nhà chung. Nó đòi hỏi phải khiêm tốn cởi mở để đối diện với các lập trường khác nhau, với sự chắc chắn các sản phẩm khoa học hướng đến chân lý và thiện ích chung, góp phần cho công cuộc trưởng thành lương tâm dân sự. Việc làm đó “không chỉ là thúc đẩy sự phát triển hài hòa và tổng hợp các nghiên cứu khoa học và công nghệ liên quan đến quá trình sinh học của đời sống thực vật, động vật và con người, mà còn được yêu cầu tiên liệu trước và ngăn ngừa những hậu quả tiêu cực có thể gây ra trong việc sử dụng kiến thức và kỹ năng để thao túng cuộc sống một cách sai lệch”.[66]
2. Phương diện đạo đức
Những lợi ích của tiến bộ khoa học và công nghệ chứng tỏ sự cao quý của ơn gọi làm người được dự phần một cách có trách nhiệm vào hành động sáng tạo của Thiên Chúa, đồng thời cũng nhấn mạnh rằng “chúng ta không thể can thiệp vào một lãnh vực của hệ thống sinh thái mà không quan tâm đủ đến các hậu quả của nó trên các lãnh vực khác”. Vì thế, chúng ta cần liên tục suy nghĩ lại về các mục tiêu, các hiệu quả, bối cảnh tổng thể và các giới hạn đạo đức của hoạt động này, nó là một hình thức của quyền lực liên hệ đến những rủi ro lớn.[67] “Những tiến bộ khoa học ngoại thường nhất, những khả năng kỹ thuật lạ lùng nhất, sự phát triển kinh tế đáng kinh ngạc nhất sẽ nhất định chống lại con người, nếu chúng không gắn liền với một sự tiến bộ xã hội và đạo đức đúng đắn”.[68]
3. Phương diện kinh tế – chính trị
Thông điệp Laudato Si’ cho biết, sự thất bại của các cuộc hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về môi trường diễn ra trên thế giới trong những năm vừa qua cho thấy các thể chế chính trị rõ ràng bị chi phối bởi công nghệ và tài chính. Các nhóm lợi ích kinh tế đặc biệt dễ dàng áp đảo trên thiện ích chung, che đậy bằng những lời hứa suông và các hành vi từ thiện chiếu lệ.[69] Mọi nỗ lực để bảo vệ và thăng tiến thế giới của chúng ta sẽ đi kèm theo những thay đổi sâu sắc trong “lối sống, các mô hình sản xuất và tiêu thụ, và cả những cơ cấu quyền lực đang thống trị xã hội ngày nay”.[70]
Theo Đức Giáo hoàng, các quốc gia và quốc tế cần có kế hoạch chính trị có tầm nhìn sâu rộng hơn. Cần phải có các chính sách và nền kinh tế thích hợp để bước vào cuộc đối thoại thẳng thắn về việc phục vụ sự sống, đặc biệt là sự sống con người. Các chính sách không được lệ thuộc vào kinh tế, cũng như kinh tế không lệ thuộc vào mệnh lệnh của thứ mô hình kỹ trị chạy theo hiệu quả.[71] Thoát khỏi mô hình kỹ trị cũng đòi hỏi quyết định “sống chậm lại” và tái khám phá cái nhìn huyền nhiệm về thụ tạo: trong môi trường thuộc con người, các động vật và nguồn tài nguyên thiên nhiên tất cả đều liên đới với nhau, không chỉ theo quan điểm sinh học mà còn là thần học, chúng như một hệ thống các mối tương quan vô hình, không thể đo lường, nhưng có thể cảm nhận được ở mức độ tình cảm và tôn giáo. Đó cũng chính là lời kêu gọi từ bỏ ý tưởng thống trị nguồn tài nguyên, “loại bỏ những nguyên nhân mang tính cơ cấu của những rối loạn kinh tế thế giới và chỉnh đốn lại những mô hình phát triển không có khả năng đảm bảo sự tôn trọng dành cho môi trường”.[72]
4. Hướng đến một cuộc cách mạng
Cuộc khủng hoảng xã hội và môi trường mà chúng ta đang trải qua đòi hỏi phải có những phản ứng kịp thời. Ở các thời điểm xảy ra khủng hoảng trầm trọng đòi hỏi có những quyết định đầy can đảm. Chúng ta thường có khuynh hướng cho rằng mọi thứ không quá nghiêm trọng và hành tinh này có thể còn tiếp tục trong tình trạng hiện tại một thời gian dài nữa. “Đây là hành vi trốn tránh nhằm duy trì lối sống, các mô hình sản xuất và tiêu dùng hiện tại của chúng ta”.[73] Do đó, ý thức mức độ nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng văn hoá và sinh thái ngày nay cần phải được chuyển đổi thành thói quen mới.[74]
Một sự thay đổi trong lối sống của chúng ta có thể gây áp lực lành mạnh trên những người đang nắm giữ quyền lực chính trị, kinh tế và xã hội.[75] Tức là những gì đang xảy ra khiến chúng ta cảm thấy cần khẩn trương tiến hành một cuộc cách mạng văn hóa mạnh mẽ, “nhìn vào thực tại một cách khác, để trân trọng sự tiến bộ tích cực và bền vững đã được thực hiện, nhưng cũng để khôi phục các giá trị và các mục tiêu lớn đã bị càn quét bởi những ảo tưởng vô hạn của chúng ta về sự vĩ đại”.[76] Cho nên cần quan tâm đến việc giáo dục con người để đạt được nhận thức mới về bản thân, một nhận thức có khả năng hướng dẫn và định hướng. Bởi vì, “chúng ta thiếu ý thức về cội nguồn chung, sự thuộc về hỗ tương và tương lai chia sẻ với mọi người. Ý thức cơ bản này có thể thúc đẩy sự phát triển những xác tín, thái độ và lối sống mới”.[77]
THAY LỜI KẾT
Thông điệp Laudato Si’ khép lại với lời mời gọi: “Chúng ta hãy ca tụng và bước đi. Ước gì những đấu tranh và quan tâm của chúng ta dành cho hành tinh này không bao giờ làm cho chúng ta mất niềm hy vọng”.[78] Thật vậy tất cả sẽ không hư mất. “Con người, trong khi có thể làm điều tồi tệ nhất, cũng có khả năng vượt lên trên chính mình, trở lại để chọn lựa điều tốt đẹp, và thực hiện một sự khởi đầu mới”.[79] Dĩ nhiên, để được như vậy, cần có một sự thay đổi mạnh mẽ từ phía con người. Và chúng ta có quyền hy vọng một ngày nào đó, khi một ngày mới bắt đầu, chúng ta sẽ được nhìn thấy ngôi nhà chung là hành tinh của chúng ta được biến đổi thực sự. Tất cả đều có thể, vì không một hệ thống nào có thể hoàn toàn ngăn chặn sự mở lòng của chúng ta đối với điều thiện hảo, chân thật và tuyệt mỹ, hoặc ngăn chặn khả năng Thiên Chúa ban cho chúng ta để đáp trả ân sủng của Ngài đang hoạt động trong đáy sâu tâm hồn của mình.[80]
Nguồn: gpquinhon.org