Hành trình tâm linh của các giám mục

GIÁM MỤC – THỪA TÁC VIÊN CỦA TIN MỪNG ĐỨC GIÊSU KITÔ, PHỤC VỤ NIỀM HY VỌNG THẾ GIỚI

BÀI 5:
HÀNH TRÌNH TÂM LINH CỦA CÁC GIÁM MỤC

Tác giả: Hội đồng Giám mục Việt Nam, năm 1998

WHĐ (12.10.2020) Các chương trước đã mô tả những nét khái quát của bối cảnh mà trong đó các giám mục hôm nay được mời gọi thi hành sứ mạng trong Giáo Hội, sứ mạng của một thầy dạy đức tin chân chính, không luồn cúi cũng chẳng thoả hiệp, luôn loan báo, dạy dỗ, bênh vực sự thật; thứ đến là sứ mạng của người thánh hoá và trung thành quản lý các ơn của Thiên Chúa; và sau cùng là sứ mạng của một người cha, gần gũi những ai mà Cha Trên Trời đã đoái thương giao cho chăm sóc, trong những nhu cầu căn bản của họ, và nhất là trong nỗi khát khao Thiên Chúa. Sống giữa dân mình, các giám mục chính là hình ảnh sống động của Đức Giêsu Mục Tử Tốt Lành, đang cùng bước với đoàn chiên của Người.

Giám mục cũng đã được nhắc nhở để thấy sứ mạng làm mục tử của ngài, mỗi khi kết hợp với Giám Mục Đoàn, nghĩa là kết hợp với đức giám mục Rôma và các anh em giám mục, thông qua các tổ chức của Giáo Hội, giúp giám mục thi hành công tác mà Chúa Giêsu và Giáo Hội đã uỷ thác cho. Sau cùng, ta đã lưu ý rằng sứ mạng của giám mục cũng rộng rãi to lớn như sứ mạng của chính Giáo Hội trên thế giới này.

1. NHỮNG ĐÒI HỎI NÊN THÁNH TRONG ĐỜI SỐNG NGƯỜI GIÁM MỤC

Tác vụ của giám mục đúng là một tác vụ rất cao cả và rất đòi hỏi; đó là một lý tưởng mà đứng trước đó ai được gọi cũng cảm thấy lo sợ một cách dễ hiểu, nhất là khi cảm nhận sự yếu đuối và bất tương xứng của mình. Chính vì thế, giám mục phải sống bằng niềm hy vọng đã từng thúc đẩy ngài chấp nhận làm tôi tớ trong Giáo Hội và thế giới. Ngài sẽ nhắc lại như thánh tông đồ Phaolô: “Tôi có thể làm được mọi sự trong Đấng làm cho tôi nên mạnh mẽ” (P1 4,13), và cũng như thánh nhân, ngài tin chắc rằng “hy vọng như thế, sẽ không phải thất vọng, vì tình yêu của Chúa đã đổ vào tâm hồn chúng ta nhờ Chúa Thánh Thần mà Người ban cho chúng ta” (Rm 5,5).

Kế đó, để mình không sống dưới mức đòi hỏi của tác vụ với trách nhiệm quá nặng nề, giám mục phải biết nhìn ra trong đức ái mục tử bí quyết làm cho mình trở nên hoàn thiện vừa là kết quả của ân sủng, vừa là đặc tính của bí tích truyền chức mà ngài đã lãnh nhận. Vì thế, ngài phải luôn luôn uốn nắn mình sao cho giống một cách đặc biệt với Đức Kitô Mục Tử Nhân Lành trong đời sống cá nhân cũng như trong khi thi hành tác vụ tông đồ, sao cho trong mọi việc cũng như đối với mọi việc, tư duy, tình cảm, những lựa chọn và hành vi của ngài đều thâm nhuần tình cảm của Đức Kitô (x. 1Cr 2,16).[1] Nhân kỷ niệm 20 năm bế mạc Công Đồng, Đại Hội Bất Thường của THĐGM năm 1985 đã nhóm họp và ghi nhận rằng “các nam nữ thánh nhân luôn luôn là nguồn canh tân Giáo Hội, trong những lúc khó khăn nhất của Giáo Hội”.[2] Chắc một điều là Giáo Hội luôn luôn cần các mục tử sáng chói, không phải chỉ vì những phẩm chất nhân bản của các ngài, mà còn vì sự thánh thiện của các ngài. Chính các mục tử ấy đã giúp làm sống dậy được nơi người trẻ hôm nay dự phóng làm linh mục.

Thế nên, trong chương này, chúng ta sẽ nêu lên một vài đường nét trong hành trình tâm linh của người giám mục, cũng là hành trình phúc âm hoá và thánh hoá dân Chúa, vì có một mối liên hệ mật thiết giữa sự thánh thiện cá nhân của người giám mục và việc thi hành tác vụ. Vả lại, chính tác vụ giám mục, nếu được thi hành cách trung thành và can đảm theo sự chỉ dạy của Chúa Thánh Thần, cũng là nguồn mang lại sự thánh thiện cho giám mục và là nguồn giúp ngài thánh hoá các tín hữu được giao cho ngài chăm sóc, với điều kiện ngài biết đánh giá các con đường nên thánh khác nhau tùy theo những đoàn sủng khác nhau.

2. CÁC CHIỀU KÍCH LÀM NÊN LINH ĐẠO CỦA NGƯỜI GIÁM MỤC

Dĩ nhiên, hành trình tâm linh của người giám mục bắt nguồn sâu xa trong ơn bí tích Rửa Tội và Thêm Sức: như mọi tín hữu khác, chính nhờ các bí tích này mà giám mục trở nên có khả năng tin Chúa, cậy Chúa và mến Chúa bằng các nhân đức đối thần, cũng như có khả năng sống và hoạt động dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần thông qua các ơn rất thánh thiện mà Người đã ban cho. Xét theo khía cạnh này, ngài phải sống một linh đạo không khác với linh đạo của các môn đệ khác, vì họ cũng được sáp nhập vào Đức Kitô và đã trở thành đền thờ Chúa Thánh Thần. Giám mục sống linh đạo của người đã chịu rửa tội và thêm sức, được bí tích Thánh Thể nuôi dưỡng và cũng cần sự thứ tha của Chúa Cha do bản tính loài người yếu đuối của mình. Giám mục phải cùng với các linh mục trong linh mục đoàn của mình đi qua những nẻo đường tu đức dành cho những người đã được mời gọi nên thánh với một tư cách mới mẻ, do Chức Thánh đem lại.[3]

Tuy nhiên, giám mục còn phải sống một linh đạo “chuyên biệt” nữa do đã nhận được ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thần ở mức sung mãn để làm cha và làm mục tử trong Giáo Hội. Đó là một nền linh đạo “riêng”, nhằm giúp vị giám mục sống trong niềm tin tưởng, cậy trông và bác ái, phù hợp với tác vụ của người phúc âm hoá, của người làm thượng tế và dìu dắt cộng đoàn. Đó là một nền linh đạo đặt người giám mục vào trong mối tương quan với Chúa Cha mà ngài là hình ảnh của Người; mối tương quan với Chúa Con như khuôn mẫu mà ngài cần phải noi theo để thi hành sứ mạng làm mục tử; tương quan với Chúa Thánh Thần, là đấng đang dẫn dắt Giáo Hội với những ân huệ phong phú mang tính phẩm trật hay mang tính đặc sủng.

Đó cũng là một nền linh đạo mang tính Giáo Hội, vì mỗi giám mục phải trở nên giống Đức Kitô Mục Tử, yêu Giáo Hội bằng chính tình yêu của Đức Kitô Lang Quân, phục vụ Giáo Hội và làm thầy, làm người thánh hoá và hướng dẫn trong Giáo Hội. Có thế, ngài mới trở thành mẫu gương và thành người đẩy mạnh một nền linh đạo hiệp thông trong Giáo Hội, trên hết mọi cấp độ.

Không thể yêu Đức Kitô và sống thân mật với Người, mà không đồng thời yêu Giáo Hội như Đức Kitô đã yêu. Thật vậy, càng yêu mến Thánh Thần Thiên Chúa, ta càng yêu mến Giáo Hội, “là một trong tất cả mọi người và là tất cả trong từng người; là đơn thuần trong đa dạng vì chỉ có một đức tin và là đa dạng trong mỗi người do đức ái nối kết và do các đoàn sủng đa dạng”.[4] Chỉ có từ lòng yêu mến Giáo Hội, đã được Đức Kitô yêu tới mức hiến mạng mình (x. Ep 5,25) và làm cho trở nên bí tích phổ quát của ơn cứu độ, ta mới có được một linh đạo truyền giáo và một lòng nhiệt thành truyền giáo, cũng như mới cống hiến được một bằng chứng rằng: Chúa Giêsu yêu thương con người bằng hết cho tình yêu, nghĩa là cho tới mức chết trên thập giá.

3. THỪA TÁC VIÊN CỦA TIN MỪNG HY VỌNG

Giám mục sẽ xuất hiện trong Giáo Hội như thế đó, theo đúng lời thánh tông đồ Phaolô: “Nhờ Đức Giêsu là con người bằng xương bằng thịt đã chịu chết, Thiên Chúa cho anh em được hoà giải với Người, để anh em trở nên thánh thiện tinh tuyền và không có gì đáng trách trước mặt Người. Anh em chỉ cần giữ vững đức tin, cần được xây dựng vững chắc, kiên quyết và đừng vì nao núng mà lìa bỏ niềm hy vọng anh em đã nhận được khi nghe loan báo Tin Mừng (…), và tôi, Phaolô, tôi đã được trở nên người phục vụ Tin Mừng ấy” (C1 1,22-23; 1,5).

Kim Chỉ Nam “Ecclesiae imago” đã dành cả một chương khá chi tiết để nói tới các nhân đức cần thiết cho người giám mục.[5] Trong bối cảnh ấy, ngoài những nhân đức siêu nhiên như vâng phục, tiết dục trọn vẹn vì Nước Trời, khó nghèo, khôn ngoan của người mục tử và dũng cảm, ta còn thấy nhắc tới một nhân đức đối thần là hy vọng. Chính nhờ có nhân đức này mà người giám mục cương quyết chỉ chờ đợi mọi điều tốt lành từ nơi Chúa và đặt hết tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, “vì nhớ tới các thánh Tông Đồ và các giám mục đầu tiên, đã từng gặp những khó khăn to lớn và những trở ngại đa dạng, vẫn rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa với tất cả sự vững dạ”.[6] Tuy nhiên, trong viễn tượng chuẩn bị Đại Hội Thường Lệ lần thứ 10 của THĐGM, chúng ta nên dừng lại lâu hơn với nhân đức hy vọng này, một nhân đức nằm trong chính tác vụ giám mục, là nguồn khơi gợi tinh thần sáng tạo mang lại sự lạc quan lành mạnh để giám mục đích thân cảm nghiệm và vui mừng thông chia cho những người khác.

Niềm hy vọng Kitô giáo xuất phát từ Đức Kitô và được nuôi sống nhờ Người. Đó là một cách tham gia vào mầu nhiệm Vượt Qua của Người và là bảo chứng cho ta được một số phận tương tự như của Đức Kitô, vì Chúa Cha đã “cho chúng ta sống lại và ngự trên trời” cùng với Đức Kitô (x. Ep 2,6).

Giám mục được đặt làm dấu chỉ là cho niềm hy vọng ấy và làm người phục vụ cũng chính niềm hy vọng ấy. Mỗi giám mục có thể lấy những lời của Đức Gioan Phaolô II sau đây làm những lời dành cho mình: “Nếu không có niềm hy vọng ấy thì chúng ta chỉ là những con người bất hạnh và đáng thương, toàn bộ hoạt động mục vụ của chúng ta sẽ bị cằn cỗi, và nhất là chúng ta chẳng còn dám tra tay vào việc gì. Nhưng bí quyết khiến ta có thể chu toàn sứ mạng của mình là nhờ niềm hy vọng không nao núng ấy. Niềm hy vọng ấy vượt lên trên tất cả những lần ta gặp phải thất vọng và nghi ngờ, vì niềm hy vọng ấy xuất phát từ một nguồn mà nếu ta có vô tâm hay hờ hững đến đâu đi nữa, ta cũng không bao giờ hết hy vọng. Nguồn cội cho phép ta hy vọng chính là Thiên Chúa, đấng đã chiến thắng thế gian một lần dứt khoát, thông qua Đức Kitô, và hiện nay Người cũng tiếp tục sứ mạng cứu độ của mình giữa nhân loại, thông qua chúng ta”.[7]

4. NHÂN ĐỨC HY VỌNG TRONG HÀNH TRÌNH TÂM LINH CỦA NGƯỜI GIÁM MỤC

Giám mục là người phục vụ Chân Lý, một Chân Lý có sức cứu thoát không phải chỉ để dạy dỗ và giáo hoá con người mà còn để dẫn đưa con người tới chỗ biết sống hy vọng và từ đó, tiến bước trên đường hy vọng. Thế nên, nếu giám mục muốn xuất hiện trước mặt dân mình như một dấu chỉ, một chứng nhân và một người phục vụ cho niềm hy vọng, thì ngài chỉ còn cách là lấy Lời Chân Lý nuôi sống mình, với tất cả tâm tình gắn bó và thái độ sẵn sàng, như Mẹ Chí Thánh của Thiên Chúa là Đức Maria, người “đã tin rằng những lời Chúa phán với mình sẽ được thực hiện” (x. Lc 1,45).

Kế đó, vì Lời Chúa được chứa đựng và diễn tả trong Sách Thánh, nên giám mục phải thường xuyên nhờ đến Sách Thánh, siêng năng đọc và tìm hiểu kỹ càng. Không phải chỉ vì ngài sẽ hoài công giảng Lời Chúa cho người khác nếu chính ngài chưa lắng nghe Lời ấy trước,[8] mà còn vì ngài sẽ làm cho mình trở nên trống rỗng, không thể thi hành tác vụ xây dựng hy vọng nếu chính ngài chưa lắng nghe Lời ấy trước.

Chính trong Kinh Thánh mà giám mục nuôi dưỡng được nền linh đạo hy vọng của mình, từ đó có thể chu toàn tác vụ phúc âm hoá của mình một cách đúng nghĩa. Như thánh Phaolô đã nói, chỉ có như thế, giám mục mới có khả năng nói với các tín hữu của mình rằng “chính nhờ được Kinh Thánh an ủi và củng cố mà chúng ta mới vững lòng hy vọng” (Rm 15,4).

Cầu nguyện chính là giây phút ưu tiên để lắng nghe Lời Chúa. Ý thức rằng mình không thể nào dạy các tín hữu cầu nguyện nếu không thông qua chính đời sống cầu nguyện của mình, giám mục sẽ siêng năng hướng lòng về với Chúa để nhắc lại với Chúa lời của một tác giả Thánh vịnh: “Con cậy trông vào lời Ngài” (Tv 119, 114). Thật vậy, cầu nguyện là nơi ưu tiên diễn tả niềm hy vọng, hay như thánh Tôma nói, cầu nguyện là “người thuyết minh cho niềm hy vọng”.[9]

Thế nhưng, nếu không ai chỉ cầu nguyện cho bản thân mình, thì huống nữa là giám mục. Chính trong khi cầu nguyện, ngài phải cưu mang Giáo Hội với mình, nhất là cưu mang dân Chúa đã được giao phó cho ngài. Noi gương Đức Giêsu khi lựa chọn các tông đồ (x. Lc 6,12-13), ngài cũng sẽ đệ trình Chúa Cha tất cả mọi sáng kiến Tông Đồ của mình và nhờ Đức Kitô, cũng như trong Thánh Thần, ngài sẽ trình lên Chúa những mối hy vọng của mình về linh mục đoàn giáo phận, những ưu tư của mình về các ơn gọi linh mục, các ơn gọi tu trì, các ơn gọi truyền giáo và các thừa tác vụ khác, những bận tâm của mình về những người tận hiến và hoạt động tông đồ của họ trong Giáo Hội địa phương, sau cùng những ước vọng của mình về các giáo dân, sao cho tất cả mọi người cũng như mỗi một người, tuỳ theo ơn gọi, tác vụ và đoàn sủng riêng của họ, dưới sự hướng dẫn của ngài, đều tập trung hướng tới việc xây dựng Thân Thể Đức Kitô. Và rồi, Chúa của mọi hy vọng sẽ cho ngài được vui tươi và bình an tràn trề, để nhờ Chúa Thánh Thần tâm hồn ngài chan chứa niềm hy vọng (x. Rm 15,13).

Giám mục cũng phải tìm những cơ hội để có thể sống việc lắng nghe Lời Chúa và cầu nguyện chung với linh mục đoàn, với các phó tế vĩnh viễn (nếu có), với các chủng sinh, với những người tận hiến đang có mặt trong Giáo Hội địa phương mình và cả với giáo dân, nhất là với những người đang làm tông đồ trong các hiệp hội, ở đâu và khi nào có thể được.

Nhờ đó, ngài cổ võ tinh thần hiệp thông và nâng đỡ đời sống tâm linh của mọi người, bằng cách tỏ rõ mình là “thầy của sự hoàn thiện” ngay tại Giáo Hội địa phương, cương quyết “thúc đẩy các linh mục, tu sĩ và giáo dân tiến lên trên con đường thánh thiện, mỗi người tuỳ theo ơn gọi riêng của mình”.[10] Đồng thời, ngài cũng củng cố sự liên kết những tương quan trong Giáo Hội mà ngài đã được đặt lên làm trung tâm hữu hình để thống nhất các mối tương quan ấy.

Ngài cũng sẽ không bỏ qua những cơ hội để sống những giây phút gặp gỡ thiêng liêng tương tự với các anh em giám mục, nhất là với các giám mục gần gũi trong cùng một giáo tỉnh hay giáo miền. Trong những lần gặp gỡ ấy, các ngài có thể cảm nghiệm được niềm vui của những anh em được sống chung với nhau (x. Tv 133,1) và tình thân ái trong Giám Mục Đoàn ngày càng thấy rõ hơn và lớn mạnh hơn.

Giám mục cũng tìm được nguồn nuôi dưỡng niềm hy vọng của mình trong chính khi cử hành Phụng Vụ Thánh với toàn dân. Thật vậy, chính khi cử hành Phụng Vụ trên trần gian này, là Giáo Hội đã nếm trước, trong hy vọng, Phụng Vụ của Giêrusalem trên trời, nơi Giáo Hội đang tiến về trong cuộc lữ hành của mình, cũng là nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Chúa Cha để làm “thừa tác viên phục vụ Đền Thánh, phục vụ Lều Thánh, Lều đích thực do Chúa chứ không phải do loài người, dựng lên” (Dt 8,2).[11]

Tất cả các bí tích, cách riêng bí tích Thánh Thể, đều là những hành vi tưởng niệm những việc Chúa đã làm và những điều Chúa đã chịu (acta et passa), là những cách biểu hiện ơn cứu độ mà Đức Kitô đã thực hiện một lần dứt khoát, và là những cách có trước hồng ân mà ta sẽ có trọn vẹn trong ngày sau hết.[12] Từ đây cho đến lúc đó, Giáo Hội sẽ cử hành các bí tích như những dấu chỉ hữu hiệu nói lên sự chờ đợi, kêu xin và hy vọng của mình.

Trong một số cuộc cử hành phụng vụ, sự có mặt của giám mục mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt. Trước hết là trong thánh lễ Dầu khi giám mục làm phép dầu dự tòng, dầu xức bệnh nhân và thánh hiến dầu Thánh. Đó chính là lúc biểu lộ Giáo Hội địa phương rõ rệt nhất: Giáo Hội cử hành Hy Tế của Chúa Giêsu, vị Thượng Tế tối cao và hằng hữu. Đối với giám mục, đó cũng là lúc bày tỏ niềm hy vọng của ngài mãnh liệt nhất, vì trong thánh lễ ấy có cả linh mục đoàn giáo phận quy tụ chung quanh ngài; tất cả, trong niềm vui hướng về chân trời Vượt Qua, họ sẽ cùng nhau nhìn vào vị Thượng Tế và làm sống lại ơn bí tích Truyền Chức bằng cách lặp lại các lời hứa, mà từ ngày thụ phong linh mục, đó đã là nền tảng làm cho tác vụ của họ trong Giáo Hội mang một tính chất hết sức đặc biệt. Dân Chúa cũng nhìn thấy những mối dây hiệp thông Giáo Hội hết sức chặt chẽ trong nghi lễ ấy, mà một năm chỉ có một lần, đúng là một tiếng thốt lên chứa chan hy vọng, dù phải trải qua bao nỗi dày vò day dứt.

Bên cạnh nghi lễ ấy, còn có một nghi lễ rất trang trọng là truyền chức cho các tân linh mục và tân phó tế. Khi tiếp nhận từ tay Chúa những cộng sự viên mới cho hàng giám mục và những người cộng tác mới cho thừa tác vụ của mình, các giám mục sẽ coi đó như một câu trả lời của Chúa Thánh Thần, đấng “vừa là quà tặng của Thiên Chúa vừa là người ban tặng các chức vụ” (“Donum Dei et dator munerum”), trước lời cầu xin của mình mong có thêm các ơn gọi, cũng là để làm cho Giáo Hội mình trở nên sáng sủa hơn với bộ mặt các thừa tác viên ấy.

Ta cũng có thể nói tương tự như thế, dựa vào phép loại suy, về bí tích Thêm Sức, mà thừa tác viên cử hành nguyên thuỷ là giám mục và riêng trong nghi lễ La Tinh, thừa tác viên thông thường cũng là giám mục. Tại đây, “nguyên việc bí tích này phải do các giám mục cử hành đã nói lên rằng bí tích này có công dụng là nối kết một cách chặt chẽ hơn những người tiếp nhận bí tích ấy với Giáo Hội, với nguồn gốc tông đồ của Giáo Hội và với sứ mạng của Giáo Hội là minh chứng về Đức Kitô “.[13]

Bản thân người hướng dẫn mục vụ, tức là giám mục, và lời chứng của ngài về Đức Kitô có hiệu quả hay không là tuỳ phần lớn vào cung cách ngài bước theo Đức Kitô và “sống thân mật với Đức Giêsu Kitô” có chính hiệu hay không. Chỉ có sự thánh thiện mới loan báo được sự canh tân đúng đắn, nên giám mục không thể bỏ vai trò của người ngôn sứ phục vụ sự thánh thiện: qua đời sống thánh thiện của mình, các ngài thực hiện trước nơi mình mục tiêu mà các ngài đang cố gắng dẫn các tín hữu đến. Tuy nhiên, trong hành trình tâm linh ấy, các ngài cũng cảm nghiệm như mọi Kitô hữu khác rằng cần phải hoán cải luôn vì các ngài không quên những yếu đuối, những thất vọng và tội lỗi của mình. Nhưng, như thánh Augustinô đã dạy, vì ta không thể nào hết hy vọng về những người chưa loại bỏ hết tội lỗi nơi mình,[14] nên giám mục sẽ chạy tới bí tích sám hối và hoà giải, và chân thành thưa lên với Chúa: “Lạy Chúa, con hy vọng nơi Ngài, xin cứu thoát con” (x. Tv 7,2; 31,2; 38,16). Bất cứ ai hy vọng mình được làm con Chúa và hy vọng có thể nhìn thấy Người đúng với sự thật của Người, đều phải thanh tẩy mình như Cha Trên Trời là Đấng thanh sạch (x. 1Ga 3,3).

Dân Chúa chắc chắn sẽ coi đó là một dấu chỉ hy vọng cho mình, khi nhìn thấy giám mục của mình tiến tới lãnh nhận bí tích chữa trị, như trong các dịp đặc biệt, khi ngài chủ sự một nghi lễ cộng đoàn. Hoặc khi nhìn thấy giám mục đang đau ốm của mình lãnh nhận bí tích xức dầu bệnh nhân và của ăn đường thánh thiện, cùng với các linh mục và giáo dân.[15]

Qua bằng chứng cuối cùng ấy nơi đời sống thế trần, giám mục có thêm dịp dạy các tín hữu của mình không bao giờ được hết hy vọng, và đau khổ nào trong hiện tại này cũng được dịu bớt do biết hy vọng vào thực tại tương lai.[16] Chính trong chuyến ra đi cuối cùng của mình từ thế gian này về với Chúa Cha, giám mục đã nói lên được cách tóm tắt, cũng như đã nhắc lại được mục tiêu của tác vụ mà lâu nay mình thi hành trong Giáo Hội là gì: đó là chỉ cho con cái Giáo Hội biết đâu là cứu cánh cuối cùng, như Môsê đã từng chỉ cho con cái Israel thây miền đất hứa.

5. NHƯ ĐỨC TRINH NỮ MARIA, CÁC GIÁM MỤC LUÔN HÂN HOAN TRONG HY VỌNG

Như thế, các giám mục đã có thể tự hào “khi hy vọng được hưởng vinh quang Thiên Chúa”, như thánh tông đồ Phaolô đã nói: “Và không phải chỉ có thế, chúng ta còn tự hào khi gặp gian truân, vì biết rằng ai gặp gian truân thì quen chịu đựng, ai quen chịu đựng thì được kể là người trung kiên, ai được công nhận là trung kiên thì có quyền hy vọng” (Rm 5,2-4). Từ chỗ hy vọng như thế, ta sẽ có được niềm vui. Thật vậy, niềm vui Kitô giáo, một niềm vui phát sinh từ hy vọng (x. Rm 12,12), cũng là mục tiêu của hy vọng. Người Kitô hữu không những chỉ nói tới niềm vui, mà còn “hy vọng sẽ được vui”.[17]

Để làm chứng và làm mẫu cho sự liên kết thiêng liêng giữa niềm vui và hy vọng, Giáo Hội chúng ta có Đức Maria như người tiên phong. Bài ca “Magnificat” của Mẹ nói lên niềm vui của tất cả mọi người nghèo đã biết dựa vào Lời Chúa để cậy trông hy vọng nơi Người. Không phải vì được vui như thế mà Đức Maria không gặp đau khổ. Trái lại, Mẹ đã liên kết cách xuất sắc với sự hy sinh của Con mình khi đứng dưới chân thập giá để làm “mẹ của đau khổ” thế nào, thì Mẹ cũng mở rộng lòng mình hết sức để đón lấy niềm vui của Chúa Phục Sinh như vậy.

Và hiện nay, bên cạnh Con mình, đang hiển ngự bên hữu Chúa Cha, sau khi Mẹ được đưa lên trời với con người nguyên vẹn, cả xác lẫn hồn, Đức Maria đang tiếp nhận vào mình tất cả mọi niềm vui và đang nếm cảm niềm vui trọn vẹn đã từng hứa cho Giáo Hội. Giáo Hội, hay những người còn lữ hành trên trần gian, nhìn lên Ngài như một “dấu chỉ sáng rực của một niềm hy vọng và của một niềm an ủi đã được bảo đảm, trong lúc chờ ngày Chúa đến”,[18] và sẽ cầu xin với Ngài như với “một Người Mẹ của hy vọng, một Người Mẹ đầy tràn niềm vui thánh thiện và là nguyên cớ cho ta được vui” (“mater spei, mater plena sanctae laetitiae et causa nostrae laetitiae”).

Bất cứ giám mục nào, cũng như bất cứ Kitô hữu nào, cũng đều đầy lòng con thảo cậy trông Đức Maria theo gương người môn đệ được yêu, sau khi tiếp nhận Mẹ Chúa trên đồi Canvê, đã đưa Ngài vào trong mọi ngõ ngách của đời sống nội tâm mình.[19]

Giáo Hội thường kêu cầu Đức Maria là “Nữ vương các thánh Tông Đồ” (“Regina Apostolorum”) – “Xin Đức Trinh Nữ Rất Thánh chuyển cầu cho mọi vị mục tử của Giáo Hội được ngày càng trở nên giống vị Mục Tử nhân hậu khi thi hành thừa tác vụ khó khăn của mình”.[20]

Câu hỏi suy tư:

1. Đâu là mối thống nhất linh đạo của giám mục, cũng như cách sống cụ thể của giám mục trong quan hệ với Thiên Chúa và với thực tại chung quanh?

2. Những sáng kiến nào tạo điều kiện cụ thể để giám mục kết hợp thiêng liêng trước hết với các linh mục và phó tế, rồi với những người tận hiến và giáo dân, nhất là những giáo dân tham gia các hiệp hội và các tổ chức của Giáo Hội?

3. Những đề nghị nào có thể đưa ra để giúp giám mục tiến tới trong suốt cuộc hành trình thiêng liêng? Vào thời kỳ đầu của sứ vụ? Trong suốt những năm sau đó?

4. Những vị Thánh Giám Mục nào có thể được coi hay đã được coi là mẫu mực cho giám mục noi theo để nuôi dưỡng đời sống tâm linh của mình?

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 1 (Tháng 12 năm 1998)