SUY NIỆM LỜI CHÚA LỄ VỌNG GIÁNG SINH

Lễ Chúa Giáng S

 

Ca nhập lễ

Chúa phán bảo tôi rằng :

“Con là Con của Cha,

ngày hôm nay, Cha đã sinh ra con.”

Bài đọc 1

 

Một người con đã được ban tặng cho ta.

Bài trích sách ngôn sứ I-sai-a.

1Đoàn dân đang lần bước giữa tối tăm

đã thấy một ánh sáng huy hoàng ;

đám người sống trong vùng bóng tối,

nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.


2Chúa đã ban cho họ chứa chan niềm hoan hỷ,

đã tăng thêm nỗi vui mừng.

Họ mừng vui trước nhan Ngài

như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt,

như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.


3Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ,

và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy

như trong ngày chiến thắng quân Ma-đi-an.


4Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần

và mọi áo choàng đẫm máu

sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa.


5Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta,

một người con đã được ban tặng cho ta.

Người gánh vác quyền bính trên vai,

danh hiệu của Người là Cố Vấn kỳ diệu, Thần Linh dũng mãnh,

người Cha muôn thuở, Thủ Lãnh hoà bình.


6Người sẽ mở rộng quyền bính, và lập nền hoà bình vô tận

cho ngai vàng và vương quốc của vua Đa-vít.

Người sẽ làm cho vương quốc được kiên cố vững bền

trên nền tảng chính trực công minh,

từ nay cho đến mãi muôn đời.

Vì yêu thương nồng nhiệt,

Đức Chúa các đạo binh sẽ thực hiện điều đó.

Đáp ca

Đ.Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta ;

Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa.

1Hát lên mừng Chúa một bài ca mới,

hát lên mừng Chúa, hỡi toàn thể địa cầu !
2aHát lên mừng Chúa, chúc tụng Thánh Danh !

Đ.Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta ;

Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa.

2bNgày qua ngày, hãy loan báo ơn Người cứu độ,3kể cho muôn dân biết Người thật là vinh hiển,

cho mọi nước hay những kỳ công của Người.

Đ.Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta ;

Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa.

11Trời vui lên, đất hãy nhảy mừng,

biển gầm vang cùng muôn hải vật,
12aruộng đồng cùng hoa trái, nào hoan hỷ.

Đ.Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta ;

Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa.

12bHỡi cây cối rừng xanh,13hãy reo mừng trước tôn nhan Chúa,

vì Người ngự đến, Người ngự đến xét xử trần gian.

Người xét xử địa cầu theo đường công chính,

xét xử muôn dân theo chân lý của Người.

Đ.Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta ;

Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa.

Bài đọc 2

 

Ân sủng của Thiên Chúa đã biểu lộ cho mọi người.

Bài trích thư của thánh Phao-lô tông đồ gửi ông Ti-tô.

11 Anh thân mến, ân sủng của Thiên Chúa đã được biểu lộ, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. 12 Ân sủng đó dạy chúng ta phải từ bỏ lối sống vô luân và những đam mê trần tục, mà sống chừng mực, công chính và đạo đức ở thế gian này. 13 Sở dĩ như vậy, là vì chúng ta trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Ki-tô Giê-su là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. 14 Vì chúng ta, Người đã tự hiến để cứu chuộc chúng ta cho thoát khỏi mọi điều bất chính, và để thanh luyện chúng ta, khiến chúng ta thành Dân riêng của Người, một dân hăng say làm việc thiện.

Tung hô Tin Mừng

 

Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại : Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho chúng ta. Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa. Ha-lê-lui-a.

Tin Mừng

 

Hôm nay, Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em.

Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Lu-ca.

1 Thời ấy, hoàng đế Au-gút-tô ra chiếu chỉ, truyền kiểm tra dân số trong khắp cả thiên hạ. 2 Đây là cuộc kiểm tra đầu tiên, được thực hiện thời ông Qui-ri-ni-ô làm tổng trấn xứ Xy-ri. 3 Ai nấy đều về thành của mình mà khai tên tuổi. 4 Bởi thế, ông Giu-se cũng từ thành Na-da-rét, miền Ga-li-lê, lên thành vua Đa-vít gọi là Bê-lem, miền Giu-đê, vì ông thuộc gia đình và dòng tộc vua Đa-vít. 5 Ông lên đó khai tên cùng với bà Ma-ri-a là người đã thành hôn với ông, lúc ấy bà đang có thai. 6 Khi hai người đang ở đó, thì bà Ma-ri-a đã tới ngày mãn nguyệt khai hoa. 7 Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ, vì hai ông bà không tìm được chỗ trong nhà trọ.

8 Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật. 9 Bỗng sứ thần Chúa đứng bên họ, và vinh quang của Chúa chiếu toả chung quanh, khiến họ sợ hãi kinh hoàng. 10 Nhưng sứ thần bảo họ : “Anh em đừng sợ. Này tôi loan báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng sẽ là niềm vui cho toàn dân : 11 Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em trong thành vua Đa-vít, Người là Đấng Ki-tô, là Đức Chúa. 12 Anh em cứ dấu này mà nhận ra Người : anh em sẽ gặp thấy một trẻ sơ sinh bọc tã, nằm trong máng cỏ.” 13 Bỗng có đạo binh thiên quốc đông đảo hợp với sứ thần cất tiếng ca tụng Thiên Chúa rằng :

14“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho loài người Chúa thương.”

Ca hiệp lễ

Ngôi Lời đã làm người dương thế

chúng ta được nhìn thấy vinh quang Người.

Suy niệm và cầu nguyện

Suy niệm:

Thiên Chúa vẫn cứ làm con người ngỡ ngàng.

Để cứu độ nhân loại, Thiên Chúa sai Con Ngài sinh bởi một phụ nữ,

làm người Do Thái, sống dưới thời đế quốc Rôma đô hộ (cc. 1-2).

Như thế Đấng Tuyệt Đối đã từ trời xuống,

chấp nhận thân phận hữu hạn của con người.

Ngài không khoác lớp áo người, nhưng là người trọn vẹn.

Ngài được cưu mang trong dạ mẹ, được sinh ra như mọi trẻ thơ.

Đêm Con Thiên Chúa chào đời là một đêm lạ lùng.

Ngài không được chào đời tại mái nhà thân yêu ở Nadarét.

Ngài cũng không được chào đời

nơi một căn phòng tử tế dành cho lữ khách ở Bêlem.

Đơn giản là vì không có chỗ (c. 7).

Nhưng tại sao lại không có, thì ta không rõ câu trả lời.

Ngài đã phải sinh ra nơi máng cỏ, nơi để đồ ăn cho súc vật.

Phải mất bao lâu Giuse mới tìm được chỗ này trong đêm?

Hãy hình dung khung cảnh âm thầm của máng cỏ ngày xưa.

Có một ngọn đèn nào để chiếu sáng không?

Có ngọn lửa nào để xua đi giá lạnh không?

Hãy cảm nếm nỗi lo sợ, vất vả, lúng túng của đôi vợ chồng trẻ.

Họ đang phải đối diện với những rắc rối lớn lao và bất ngờ.

Điều cần nhất là hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.

Khi tiếng khóc đầu tiên của Hài Nhi cất lên giữa đêm khuya,

ơn cứu độ đã mỉm cười với nhân loại.

Lạ lùng thay cách thức Con Thiên Chúa làm người!

Nhóm người chăn chiên, những kẻ sống bên lề xã hội,

chứ không phải là những nhà lãnh đạo tôn giáo hay trần thế,

mới là những người đầu tiên được sứ thần loan báo Tin Mừng.

Họ sống ngoài đồng, chia phiên nhau thức đêm để canh giữ đoàn vật.

Bất ngờ họ bị bao trùm bởi vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa (c. 9).

“Hôm nay, Đấng Cứu độ, Đấng Kitô, Đức Chúa được sinh ra cho anh em.”

Đấng dân tộc anh em chờ mong từ lâu, nay đã đến.

Đây là Tin Mừng! Đây là Niềm Vui cho mọi người!

Nhưng dấu hiệu để nhận ra vị Tân Vương thuộc nhà Đavít

thì vừa bình thường: “một trẻ sơ sinh được quấn tã”,

vừa lạ thường: “nằm trong máng cỏ” (c. 12).

Đấng Mêsia mới được sinh ra không ngự nơi cung vua.

Dấu hiệu sứ thần cho ông Dacaria là bị câm.

Dấu hiệu sứ thần cho Maria là bà chị Êlisabét mang thai lúc đã già.

Dấu hiệu sứ thần cho các anh chăn chiên là trẻ thơ quấn tã nơi máng cỏ.

Các anh chăn chiên cần có đức tin để dám tin vào dấu hiệu ấy.

Thiên Chúa vẫn đến với con người bằng những nẻo đường bất ngờ.

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

bình an dưới thế cho loài người Chúa thương” (c. 14).

Hoàng đế Augustô được ca ngợi là đấng cứu độ.

Ông được coi là người đem lại hòa bình,vì ông đã chấm dứt chiến tranh.

Hôm nay, Thiên Chúa muốn ban cho chúng ta bình an thật qua Đức Kitô.

Ngài muốn ban cho chúng ta Đấng Cứu Độ thật là Đức Giêsu.

Xin cầu cho hòa bình trên mặt đất, bình an trong lòng người.

Ước gì chúng ta biết được rằng mình là những người được Chúa thương.

Ý cầu nguyện:

Giữa giá rét của mùa đông,

xin cho con gặp Chúa.

Giữa những long đong

và bấp bênh của phận người,

xin cho con gần Chúa.

Giữa cảnh nghèo khó và trơ trụi,

xin cho con thấy Chúa đi với con và hiểu con.

Lạy Chúa Giêsu bé thơ nằm trong máng cỏ,

xin cho con cảm được sự bình an của Chúa,

ngay giữa những âu lo hằng ngày.

Xin cho con đón lấy cuộc đời con

với bao điều không như ý.

Và cuối cùng,

xin cho con dám sống như Chúa

vì Chúa đã dám sống như con.