Trưởng thành nhân bản – Trưởng thành Kitô hữu

TRƯỞNG THÀNH NHÂN BẢN – TRƯỞNG THÀNH KITÔ HỮU

Antonio Avila Blanco

Tác giả: Antonio Avila Blanco là giám đốc và giáo sư của Học viện Mục vụ Huấn giáo Madrid. 

NguồnMadurez humana. Madurez Cristiana, in: Nuevo Diccionario de Catequética, dirigido por V. Ma Pedrosa – Ma Navarro – R. Lázaro – J. Sastre, ed. San Pablo Madrid 1999, vol. II., 1390-1398.

Viết tắt. TLH = Tâm lý học. Các chú thích và phụ thêm của người dịch.

Nội dung.

I. Nguồn gốc của từ ngữ “trưởng thành”.

II. Quan niệm hiện nay về trưởng thành nhân bản:

1. Những đóng góp của tâm phân học.

2. Những đóng góp của tâm lý học phát triển.

3. Những đóng góp của tâm lý học nhân văn.

4. Trưởng thành như là tích hợp của nhân cách.

III. Trưởng thành nhân bản và trưởng thành tôn giáo.

IV. Trưởng thành tôn giáo (gặp gỡ Thiên Chúa).

V. Trưởng thành Kitô hữu.

Phụ thêm.

1/ Các chặng của đức tin.

2/ Sự trưởng thành trong các văn kiện Tòa thánh về đào tạo linh mục và tu sĩ.

 

I. Nguồn gốc của từ “trưởng thành”

Trong các ngôn ngữ Âu châu, “trưởng thành” được gọi là “chín muồi”: maturité (Pháp), maturity (Anh), madurez (Tây-ban-nha). Từ ngữ này không do TLH tạo ra, nhưng lấy từ nông nghiệp, khi nói đến hoa quả đã phát triển đến mức tối đa. Từ đó, trong ngôn ngữ bình dân, trưởng thành (chín chắn) được áp dụng cho con người ở lứa tuổi thứ hai trong đời (thành niên) [1]. Quan niệm bình dân cho rằng sự trưởng thành được thủ đắc nhờ kinh nghiệm và sự học hỏi của lứa tuổi thứ nhất (thiếu niên), và đã đạt đến một mức sung mãn tương tự như hoa trái của loài thực vật. Do đó, quan niệm về trưởng thành được đồng hóa với một lứa tuổi trong đời, tuổi trưởng thành. Đây là một kết quả đạt được do dòng thời gian và học tập, và một khi đã thủ đắc thì sẽ chiếm hữu vĩnh viễn. Do đó, ta thấy rằng nó là một quan niệm tĩnh: đó là một món đồ sở hữu.

Việc đồng hóa sự trưởng thành với một hạng tuổi như thế quả là bất cập. Quan điểm này đã bị xét lại trong tư tưởng bình dân cũng như trong ngành TLH: phải chăng tất cả những người ở tuổi trưởng thành đều thực sự trưởng thành? Nơi người lớn, vẫn còn xuất hiện những phản ứng “trẻ con”, bất ổn về tình cảm, lạc mất ý hướng. Mặt khác, quan điểm về sự trưởng thành đã tiến triển dọc theo lịch sử TLH, và dần dần một quan niệm về trưởng thành đã được du nhập, trong đó ý tưởng trưởng thành được tách rời khỏi lứa tuổi, và sự trưởng thành được hiểu như là đạt được sự tích hợp nhân cách (integración personal), như là quân bình tâm lý, như là khả năng đương đầu với những thách đố của cuộc sống. Như vậy, sự trưởng thành không còn được nhìn dưới hình thức tĩnh nhưng dưới hình thức năng động; cuộc đời được quan niệm như một tiến trình trưởng thành liên lỉ. Sự trưởng thành được hiểu như sự quân bình cá nhân cần phải đạt đến vào mỗi lúc, chứ không phải như cái gì đã sở hữu một lần mãi mãi. Nó là một tình trạng cá nhân mà ta luôn phải hướng đến và không bao giờ có thể sở hữu hoàn toàn. Vì thế, ta có thể nói cách chính xác rằng một thiếu nhi đã trưởng thành, hoặc những người lớn tuổi mà chưa trưởng thành.

II. Quan niệm hiện nay về sự trưởng thành nhân bản

Quan niệm năng động về trưởng thành đặt ra nhiều câu hỏi mới: thế nào là trưởng thành và không trưởng thành? Phải hiểu như thế nào về sự trưởng thành vào mỗi thời điểm của cuộc đời? Có những đặc trưng nào cho phép nhận ra cấp độ trưởng thành vào mỗi thời điểm không? Đâu là những động lực giúp cho con người đạt đến sự trưởng thành, và những động lực làm ngăn cản hoặc gây khó khăn cho nó? Khi bước sang lãnh vực tôn giáo, thử hỏi: thế nào là sự trưởng thành về đức tin? Đâu là những đặc tính của sự trưởng thành đức tin? Đâu là tương quan giữa trưởng thành nhân bản và trưởng thành Kitô hữu?

Trải qua dòng lịch sử, những câu hỏi vừa nêu đã được đề cập nhiều cách, và gần đây do các trường phái TLH khác nhau. Chúng tôi xin tóm tắt những sự đóng góp ấy.

1. Sự đóng góp của tâm phân học

Đối với tâm phân học, quan niệm về trưởng thành được gắn liền với sự quân bình cá nhân, mà căn bản là sự hài hòa giữa những chiều kích sâu thẳm nhất của nhân cách. Trong một câu tuyên bố thời danh, Sigmund Freud đồng hóa sự trưởng thành với khả năng yêu thương và làm việc cách tự do, hoặc khả năng giải quyết những cuộc giằng co nội tâm, cách riêng những giằng co vô thức làm ngăn trở yêu thương và làm tê liệt hoặc làm cản trở cho khả năng sinh sản.

Trong cùng một chiều hướng ấy, Carl Gustav Jung mô tả tiến trình trưởng thành như là tiến trình đương đầu với vô thức cá nhân và với vô thức tập thể, nhằm đạt được sự tích hợp nhân cách, mang lại căn tính và hài hòa sâu xa cho cá nhân. Jung mang đến một chiều kích mới cho sự quân bình nhân cách, khi đặt nó trong tương quan không chỉ với những năng lực vô thức của cá nhân mà còn với những năng lực vô thức của chủng loại.

Những cảm nghiệm về sự mất gốc xã hội và văn hóa; những khó khăn trong cách diễn tả cuộc sống chung với những người cùng chung một nền văn hóa; sự thiếu thốn những cử chỉ và nghi thức biểu tượng cho phép hội nhập các phần tử vào một cộng đồng nhân loại: đó là những đối tượng nghiên cứu của Jung khi đề cập đến sự quân bình nhân cách, sức khỏe và trưởng thành nhân bản, rất có liên quan với quan điểm cổ truyền về đức khôn ngoan.

Erich Fromm bàn về sự trưởng thành bằng cách kết hợp các khía cạnh tâm lý với triết học và xã hội. Đối với ông, những đề tài quan trọng là khả năng biết yêu thương, biết sống tự do, có một bậc thang các giá trị, một nền luân lý; nói khác đi, đó là đặt nặng cái bản tính (to be) hơn là cái sở hữu (to have), khả năng đảm nhận rủi ro hơn là tìm kiếm an toàn bằng mọi giá. Fromm suy tư những chủ đề này trong bối cảnh của xã hội hiện nay. Chúng ta có thể nói được rằng sự đóng góp quan trọng của Fromm là móc nối khái niệm về quân bình (lấy từ Freud) với sự cần thiết của ý nghĩa (lấy từ triết học hiện sinh) và chiều kích xã hội của con người.

Tóm lại, sự đóng góp của các khuynh hướng tâm-phân-học cho quan niệm về trưởng thành nằm ở chỗ coi sự trưởng thành như một tiến trình hội nhập những chiều kích khác nhau có ý thức hoặc vô thức của nhân cách, trong một sự quân bình không bao giờ đạt được cách hoàn toàn. Bên cạnh điểm chung đó, mỗi tác giả đào sâu vài khía cạnh riêng biệt.

2. Sự đóng góp của TLH phát triển

Một nguồn thứ hai của TLH để hiểu biết sự trưởng thành là những nghiên cứu về sự phát triển của con người. Một sự hiểu biết về sự phát triển của con người, một sự mô tả chính xác hơn về mỗi giai đoạn mà con người phải trải qua trong suốt cuộc đời, những động lực nội tại hỗ trợ cho sự phát triển: tất cả những điều ấy giúp chúng ta hiểu rõ hơn thế nào là trưởng thành hoặc thiếu trưởng thành ở mỗi giai đoạn của cuộc đời. Theo TLH phát triển, sự trưởng thành được hiểu như khả năng đối diện với những thách đố xảy đến trong suốt cuộc đời, theo một cách thức tương xứng với tuổi tác và tình trạng của cá nhân. Vì thế cần phải xác định từng cấp độ mà con người phải đạt tới trong sự phát triển bản thân, tức là mô tả cần hiểu thế nào “cách tương xứng” với mỗi lứa tuổi, đâu là khả năng mà chủ thể thường đạt được, và những khả năng vận dụng để đáp ứng với mỗi thứ thách đố.

Vào lúc mới ra đời, khoa TLH phát triển đã dồn hết sức lực để mô tả chi tiết các lứa tuổi của sự phát triển tổng quát, đặc biệt là tuổi thiếu niên và thanh niên. Trong hướng đi này, công trình của Arnold Gesell thật là căn bản. Sau đó, TLH phát triển không chỉ lo diễn tả mà còn giải thích cái gì làm động lực, cái gì gây ra sự phát triển ở mỗi giai đoạn. Các tác phẩm của Jean Piaget hoặc Lev Vygotski về trí tuệ đã trở thành mẫu mực đáng kể cho việc nghiên cứu. Tuy nhiên, sự đóng góp quan trọng nhất cho sự trưởng thành có lẽ là của ông Erik Erikson.

Erik Erikson mang lại sự tiến triển cho phân tâm học ở chỗ quan niệm rằng cuộc sống là cái gì năng động, Theo ông, trong suốt cuộc đời, khi va chạm với thực tại, con người phải đối diện với tám thách đố lớn hoặc tám cuộc khủng hoảng tăng trưởng. Các thách đố này chính là tám giai đoạn của sự tiến triển; đặc trưng của mỗi giai đoạn là sự phát triển đặc thù của cuộc khủng hoảng tâm lý – xã hội, mà con người cần phải giải quyết đúng lúc để có thể chuyển sang giai đoạn kế tiếp. Giải quyết thành công sẽ tăng thêm sự trưởng thành. Sự giải thích mỗi giai đoạn cùng với những căng thẳng của nó đã được Erikson mô tả trong cuốn sách “Tuổi thơ và xã hội” (Childhood and society, xuất bản lần đầu tại New York năm 1950).

a) Tin tưởng căn bản / Thiếu tin tưởng căn bản. Trong giai đoạn này (vào những tháng đầu tiên của cuộc đời), phát triển sự khoan khoái, và cách riêng, nơi môi miệng, qua đó em bé cảm nghiệm sự khoan khoái của sự nuôi dưỡng hằng ngày, và những cảm giác hạnh phúc. Dần dần, phát triển cảm tưởng là thế giới chung quanh em là tốt đẹp, đáng sống. Hậu quả, em dần dần thủ đắc sự tin tưởng vào chính bản thân; điều này sẽ là nguồn gốc nâng đỡ cho sự tăng trưởng. Ngược lại, nếu không gặp thấy cánh tay bồng ẵm, một người để trao đổi tình cảm, một nguồn mạch khoan khoái và an toàn, thì em sẽ cảm thấy thế giới chung quanh mình là xấu xa, và mất sự an toàn, dần dần sẽ mất tin tưởng vào bản thân.

b) Tự lập / Hổ thẹn và nghi ngờ. Giai đoạn hai kéo dài cho đến khoảng hai hay ba tuổi. Đây là thời gian mà em bé dần dần đạt được sự tự lập về hành động và di chuyển. Ở giai đoạn này, hậu môn là nơi diễn ra sự giao tranh giữa hai hình thái hoạt động: giữ lại và tống đi. Hai hình thái cũng được diễn đạt qua sự phát triển cơ bắp, qua những hành vi như nắm giữ đồ vật và kéo giật chúng. Em bé thường tỏ ra phân vân giữa hai thái cực, đôi khi dữ dội khiến em không thể kiểm soát được. Tuy vậy, em phải học cách kiểm soát hai xung năng ấy để có thể đạt được sự tự lập. Nếu bị ngăn chặn quá đáng bởi người cha, em bé sẽ rơi vào sự nghi ngờ và hổ thẹn. Trong giai đoạn này, em bé phải đối diện với hai thực trạng: cảm thấy tự lập, tự tín, có khả năng kiểm soát thân thể và tính tình; hoặc là bất ổn đối với bản thân, sợ hãi những cái chung quanh mình.

c) Chủ động / Tội lỗi. Giai đoạn này kéo dài cho tới 5 hoặc 6 tuổi, được Freud đặt tên là dương vật, và gắn liền với mặc cảm Edipe cùng với những cảm xúc, ước muốn và sợ sệt. Erikson liên kết giai đoạn với những khả năng mới của em bé: độc lập và những cử động mạnh mẽ, hiểu được ngôn ngữ, óc tưởng tượng dồi dào và lắm lúc gây kinh hãi. Ở giai đoạn này, em bé bắt đầu chú ý đến ý hướng của các hành động và tình cảm của mình, bởi vì là thời gian bắt đầu có ý thức luân lý và cảm giác tội lỗi. Điểm tích cực là những điều vừa nói có thể điều khiển tính tò mò và năng lực của em vượt ra khỏi gia đình, để hướng đến thế giới của các sự kiện, các lý tưởng, các mục tiêu thực tiễn. Tuy nhiên, nguy cơ của giai đoạn này là sự xuất hiện tâm tình tội lỗi trước những ước muốn bị ngăn cấm và những mối ghen tương, đôi khi được biểu lộ qua sự sợ hãi không thể kiềm chế, làm cho sự tăng trưởng của em bé bị bế tắc.

d) Tài năng / Tự ti. Giai đoạn này được Erikson đặc tên là “tiềm ẩn” hiểu theo một nghĩa đặc biệt. Giai đoạn này kéo dài cho đến tuổi thiếu niên và thanh niên. Đây là thời kỳ của việc học hành quy củ, dưới sự hướng dẫn của người lớn. Em bé ra khỏi khung cảnh gia đình, và khám phá ra những cách thức và khả năng sống tương quan với các em bé khác và với người lớn. Trong giai đoạn này, em học cách sử dụng những dụng cụ và kỹ năng của thế giới người lớn, do đó phát triển tâm trạng chủ động. Khi nỗ lực của mình không đạt được kết quả hoặc thấy xung khắc với các mục tiêu mà người lớn đề ra thì sẽ phát sinh mặc cảm tự ti.

e) Căn tính / Hỗn độn căn tính. Sự đối đầu này xảy trong tuổi dậy thì và thanh niên. Vào thời kỳ thân thể biến đổi nhanh chóng, các cơ quan sinh dục nảy nở, thì một câu hỏi được đặt ra liên quan tới sự đồng nhất và liên tục với những năm trước đây. Tuổi trẻ thành niên phải đối diện với sự móc nối các đặc tính của bản ngã thuở niên thiếu với các vai trò thành niên mà mình đang hướng đến. Người bạn trẻ sẽ cấu trúc căn tính của mình cách tiệm tiến, khởi đi từ ý thức từ thâm tâm của mình, những vai trò mà mình nắm giữ, cách thức người khác đánh giá mình, những năng khiếu của cá nhân. Chuyện thường xảy ra là trong tiến trình này, người bạn trẻ sẽ đi tìm một căn tính tạm thời bằng cách đồng hóa mình với một người anh hùng bình dân nào đó, hoặc gia nhập một đám nào đó để thủ đắc một căn tính cho mình. Việc gia nhập các nhóm này tránh cho người bạn trẻ khỏi cảm giác bị hỗn độn căn tính, và tạo cơ hội chứng tỏ khả năng trung thành; tuy nhiên, đây chỉ là bước đầu để đạt được một căn tính cá nhân, khác hẳn với các đồng bạn, ngõ hầu trở thành chủ động cho cuộc đời của mình. Ngược lại, anh ta sẽ để cho mình bị lôi cuốn bởi môi trường hoặc bởi những người khác mà không biết rõ ý nghĩa của cuộc sống, thậm chí rơi vào những bệnh hoạn trầm trọng về hỗn loạn căn tính.

f) Thân mật / Lạc lõng. Sau khi đã đạt được căn tính của mình, bạn trẻ đã sẵn sàng chia sẻ căn tính của mình với căn tính của người khác, trong một mối tương quan thân mật. Mặc dù Erikson chỉ khai triển đề tài này dưới khía cạnh tương quan hỗ tương bền bỉ giữa hai người khác giới tính, nhưng ta có thể nghĩ đến những hoàn cảnh khác, tựa như tình bạn, tình đồng đội. Ngược lại, nếu thiếu căn tính vững bền và sợ mất bản ngã, đương sự tránh những tương quan ấy, và chỉ có những mối liên hệ hời hợt, với hệ quả là tâm tình xa cách, cô đơn.

g) Sinh sản / Trì trệ. Đây là thách đố của tuổi trưởng thành đúng nghĩa. Xét vì việc học tập và truyền đạt văn hóa giữ tầm quan trọng trong đời sống con người, tính sáng tạo giữ một vai trò căn bản. Để cho cuộc đời của mình có ý nghĩa đối với người khác, người trưởng thành cần cảm thấy mình quan trọng. Nơi thực hiện tiến trình này là sự truyền đạt nó cho các thế hệ mới. Còn những ai bị thu hút vào những toan tính khác và sống khép kín, thì có thể sẽ có cảm giác mệt mỏi.

h) Viên mãn / Thất vọng. Một khi đã thành công trong việc đạt được mục tiêu của bảy giai đoạn trên đây, nghĩa là sự trưởng thành trong mỗi giai đoạn của cuộc đời, sự thu hoạch của tuổi già sẽ là cảm giác viên mãn, và nhân cách của họ được trang điểm với nhiều đức tính. Đặc tính viên mãn của con người “chín chắn” là tính nhất quán và toàn bộ. Giai đoạn viên mãn này cũng bao gồm tâm tình thông hiệp với thế giới, với xã hội và với cuộc sống cũng như cảm thức tâm linh. Họ mang trong mình một hình thức mới của tình yêu dành cho cha mẹ và cho những người đã gây ảnh hưởng cho cuộc đời. Họ cảm thấy liên đới với những dân tộc xa xôi và với những người đã dấn thân phụng sự nhân phẩm và tình thương. Sự viên mãn cũng đưa đến sự chấp nhận cái chết trong một chu kỳ duy nhất của cuộc sống. Khi nào điều này không xảy ra, thì người ta cảm thấy cuộc sống kết liễu và mất mát. Sự thiếu tích hợp của bản ngã được biểu lộ qua sự thất vọng, không chấp nhận thời gian trôi qua nhanh chóng và không tài nào khởi đầu lại nữa.

3. Những đóng góp của TLH nhân bản

Một sự đóng góp thứ ba cho quan điểm về sự trưởng thành là TLH nhân bản, muốn đúc kết những đóng góp của tâm-phân học và TLH thực nghiệm. TLH tiếp cận vấn đề trưởng thành từ góc độ của sự tăng trưởng cá nhân, động lực (motivaciones) và sự tự trọng . Trong học thuyết về các động lực, ông Abraham Maslow ghi nhận rằng bên trên các động lực cơ bản (mà đặc tính là có thể được mãn nguyện) còn có các động lực cao cấp, là đặc trưng của loài người, với đặc tính là khả năng phản hồi: càng bồi dưỡng chúng thì càng thấy nhu cầu phải thực hành. Trong số này, có các nhu cầu luân lý và thẩm mỹ và nhất là nhu cầu ý nghĩa.

Như vậy, theo Maslow, con người là một hữu thể mà, – ngoài việc thỏa mãn các nhu cầu cơ bản như ăn uống, giao hợp, kết hội, vv và sự phát triển sinh học để trở thành người lớn- , còn có nhu cầu thành tựu cá nhân, mang lại ý nghĩa cho cuộc sống ở giữa một khung cảnh, nhờ thế họ cảm thấy lành mạnh, chín chắn và hạnh phúc.

Cũng trong chiều hướng này, ta có thể xếp các nhà TLH thuộc cùng một phong trào, tựa như E. Fromm y Rollo May, cách riêng Carl Rogers với lý thuyết về đối thoại, đồng hành cá nhân và nhóm.

4. Sự trưởng thành như là sự tích hợp của nhân vị

Chúng ta có thể rút được những kết luận gì từ những đóng góp của các trường phái TLH khác nhau? Một cách tổng hợp, thiết tưởng có thể mô tả sự trưởng thành và những điều kiện cần thiết để đạt được sự trưởng thành như sau:

1) Thứ nhất, cần phải nhắc lại rằng sự trưởng thành là một ý niệm năng động: nó không phải là một cấp độ đạt được vào một lứa tuổi nào đó (quen gọi là tuổi trưởng thành), nhưng là một tiến trình hiện diện dưới nhiều hình thức khác nhau dọc theo mỗi lứa tuổi.

2) Như vậy, sự trưởng thành được hiểu như là sự quân bình đạt được vào mỗi giai đoạn của cuộc đời, giữa những chiều kích khác nhau của nhân cách (ý thức và vô ý thức, tình cảm, lý trí, ý chí, xã hội). Sự quân bình này luôn luôn mang tính tạm thời và bấp bênh.

3) Sự quân bình này không chỉ diễn ra giữa các chiều kích khác nhau của cá vị, nhưng còn phát sinh qua cuộc đối thoại và thông chia với tha nhân, qua việc đảm nhận những vai trò và chức vụ khác nhau mà đương sự đảm nhận, qua việc vượt qua những thách đố do khung cảnh và xã hội đặt ra mà đương sự phải giải quyết.

4) Những thách đố xã hội không giống y như nhau trong mỗi lứa tuổi của cuộc đời, nhưng có một sự tiến triển, một đàng do các khả năng của lứa tuổi, đàng khác do khung cảnh xã hội ở nơi đương sự sinh sống (giai cấp xã hội, văn hóa, vv).

5) Việc đạt tới sự trưởng thành không chỉ giới hạn vào việc đánh giá về chính bản thân (điều sẽ được củng cố dần dần dọc theo cuộc sống), nhưng còn tùy thuộc vào nhãn quan của đương sự về thế giới và về xã hội chung quanh. Nói cách khác, sự trưởng thành đi đôi với sức khỏe tâm lý.

6) Sau cùng, việc đạt đến mức trưởng thành ở mỗi giai đoạn cũng có tính năng động, bởi vì trở thành động cơ cho sự tăng trưởng và sự thay đổi nhân cách của đương sự, khiến cho họ có khả năng đương đầu với những thách đố mới được đặt ra trong cuộc đời.

III. Trưởng thành nhân bản và trưởng thành tôn giáo

Một câu hỏi căn bản được đặt ra cho chúng ta là: có mối tương quan giữa trưởng thành nhân bản và trưởng thành tôn giáo không? Liệu chúng ta có thể áp dụng những học thuyết về sự trưởng thành nhân bản cho tiến trình tăng trưởng đức tin được không, ngõ hầu có thể xử lý trong phạm vi tôn giáo, chẳng hạn như trong việc phân định ơn gọi, trong việc tiến cử vào chức vụ, vv? Đây là một câu hỏi then chốt được đặt ra cho TLH tôn giáo nói chung, hoặc cho thần học tâm linh, và thần học huấn giáo, ngõ hầu có một khái niệm về sự tăng trưởng trong đức tin. Những câu hỏi liên quan sự trưởng thành tôn giáo mang theo nhiều hệ luận không những về lý thuyết mà còn về thực hành nữa.

Trước hết, để khởi hành, thiết tưởng nên nhắc lại câu tục ngữ cổ điển trong nhân luận thần học: “Ân sủng không thay thế tự nhiên”. Vinh quang Thiên Chúa là muốn cho con người được sống, và sống nhân bản cách sung mãn qua việc phát triển đầy đủ tất cả những tiềm lực của mình, giúp cho nó trở nên hình ảnh của Đấng Tạo hóa (St 1,27), con người mới theo hình ảnh của Đức Kitô (Rm 8,29). Tuy nhiên sự tăng trưởng nhân bản này cũng kèm theo ý thức về sự hữu hạn của con người, mở ra cho nó cuộc tìm kiếm cõi siêu việt, được diễn tả qua câu nói của thánh Augustino : “Con sẽ không tìm Ngài nếu như con không gặp Ngài”,

Thế nhưng, trong thế giới đa nguyên mà chúng ta đang sống, không thiếu những người tố cáo tôn giáo, và cụ thể là Kitô giáo, vì đã làm cho con người bị tha hóa, làm cho cuộc đời mất tính nhân bản; từ đó, họ chủ trương rằng để cho con người được trưởng thành thì cần phải loại bỏ Thiên Chúa. Đối lại, cũng không thiếu những Kitô hữu tố cáo rằng những kẻ vô thần là những con người khiếm khuyết, thiếu trưởng thành. Vì thế, đối với thần học, cần phải mở ra những con đường đối thoại, như công đồng Vaticanô II đã vạch ra, cho phép chúng ta nhìn nhận nơi mỗi con người những dấu vết của sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc đời, và đồng thời, cũng biết chấp nhận rằng trong bất cứ con người nào, cũng có những vùng tối tăm, non nớt, bất cập. Dù sao đi nữa, sứ điệp Kitô giáo góp phần vào việc hiểu biết sự trưởng thành nhân bản, và những dữ kiện của TLH về sự trưởng thành nhân bản giúp khám phá một vài dấu vết bất cập trong hình thức sống đức tin.

IV. Sự trưởng thành tôn giáo (cuộc gặp gỡ Thiên Chúa)

Một loại cảm nghiệm nhân bản như là ý thức về sự hữu hạn của mình, cuộc gặp gỡ liên bản vị của tình yêu, cảm nhận về việc cưu mang sự sống và niềm vui được làm cha mẹ, cảm nghiệm về đau khổ và thất vọng, nỗi bất bình và chống cự cảnh bất công, khả năng ngây ngất trước cái thiện và vẻ đẹp của cuộc sống, có lẽ đó là những cảm nghiệm, dưới một hình thức nào đó, mở ra đến việc tìm kiếm ý nghĩa tối hậu của cuộc đời và gặp gỡ Thiên Chúa.

Tuy nhiên không phải hết mọi cảm nghiệm đều chín chắn như nhau. Chúng ta thường phóng dọi lên Thiên Chúa, (cũng tương tự như chúng ta vốn quen làm đối với các tương quan với tha nhân), những ước mong được sống an toàn, những nỗi lo sợ, những thất bại, những mơ ước của mình. Tất cả những điều này mở ra một tiến trình phê phán về hình ảnh của chúng ta về Thiên Chúa, thanh luyện khỏi những ngẫu tượng mà chúng ta tạo ra mỗi ngày. Một trong những dấu hiệu của sự trưởng thành tôn giáo là thái độ cởi mở đứng trước Mầu nhiệm, biết hồ nghi về nguy cơ ngẫu tượng hóa mối tương quan của ta đối với Thiên Chúa; một lối sống tín thác và ngoan ngoãn thi hành ý muốn của Chúa, mang lại kết quả là sự an bình sâu xa, thái độ tự do và can đảm đối diện với những gì vây quanh ta. “Đừng sợ”, “không chi có thể làm nao núng”.

V. Sự trưởng thành Kitô hữu

Những điều vừa rồi có thể áp dụng cho tất cả mọi tôn giáo, với những nét đặc thù của mỗi tôn giáo. Đối với Kitô giáo, đặc trưng của nó là mối tương quan với chính bản thân Chúa Giêsu.

Kể từ mầu nhiệm nhập thể, Thiên-Chúa-ở-cùng-chúng-ta, bản thân Chúa Giêsu, đối với các tín hữu, trở nên điểm quy chiếu tối hậu của loài người. Người là khuôn mẫu, điểm đến, và thầy dạy của nhân loại. Nhờ Người, suối nguồn ân sủng đã đổ tràn xuống nhân loại, giúp cho chúng ta không những giao hoà với Thiên Chúa, mà còn với chính nhân tính của chúng ta. Người là con người mới, đã biến đổi mỗi người chúng ta thành những con người mới, được tái sinh nhờ bí tích thánh tẩy.

Chúng ta đừng nên coi cuộc tái tạo nhân tính của chúng ta như là một hành vi ảo thuật, nhưng như là một bổn phận phải tăng trưởng không ngừng. Giống như một tiến trình (Ep 4,13) trong đó có vai trò của ân sủng do Chúa Kitô đổ xuống, và có vai trò của hành động tự do và tự nguyện về phía con người. Vì thế thánh Phaolô mời gọi các Kitô hữu hãy đón nhận ân sủng (Ep 4,17 tt) và mỗi người hãy làm tăng trưởng trong mình những tâm tình của Đức Kitô Giêsu (Pl 2,5).

Tất cả những điều đó đã được thực hành và ghi lại trong Tân ước dưới các phạm trù “đi theo Chúa Giêsu”, “trở thành môn đệ”, giả thiết một tiến trình trong đó các chặng của tiếng gọi, đi theo và sai đi đã nêu bật những giai đoạn của sự trưởng thành Kitô hữu. Tiến trình này với những chặng của nó cho phép ghi nhận như là những khía cạnh của sự trưởng thành Kitô hữu:

a) Ý thức về bản thân của mình, về những giá trị và giới hạn của mỗi người, về khung cảnh xã hội của mình (“Người kêu gọi họ đích danh”). Khả năng mở rộng và lắng nghe vượt quá thực tại cụ thể, và khả năng vươn lên để gặp gỡ Đấng kêu gọi mỗi người trong những biến cố, những hoàn cảnh và những con người mà ta gặp thường ngày.

b) Sự tiến triển và thanh luyện trong lãnh vực tình cảm và thái độ, tìm cách uốn nắn chúng phù hợp với những tâm tình của Chúa Giêsu. Xếp đặt sứ điệp Kitô giáo cách hệ thống để đối thoại với thế giới chung quanh (“Trình bày lý do của niềm hy vọng của anh em”). Hiệp thông với những người họp thành cộng đoàn các môn đệ, trải qua một tiến trình thanh luyện và chữa trị tất cả những gì nhem nhuốc trong các mối tương quan (ghen ghét, đố kị, cạnh tranh.. ). Lòng say mê dành cho hết mọi người như là biểu lộ khuôn mặt của Thiên Chúa, đặc biệt dành cho những người bé nhỏ, yếu ớt, nghèo nàn nhất, như là biểu lộ lòng yêu thương ưu ái của Chúa Giêsu.

c) Ý thức rằng mình đã lãnh nhận một nhiệm vụ, một sứ mạng trong việc xây dựng thế giới, trong việc loan báo Tin mừng tỏa rạng như một ân sủng mang lại tình huynh đệ và ơn cứu độ. Ý thức về tự do như là một liều lĩnh khi dám đưa ra quyết định, khi mở ra những con đường mới, khi tạo ra những hoàn cảnh mới để cho Chúa có thể hiện diện. Sự quyết tâm dấn thân vào sứ mạng, bao gồm kể cả những người không cùng tín ngưỡng hoặc ý thức hệ. Niềm xác tín rằng mọi sự, kể cả cuộc sống của mình, đều có một ý nghĩa.