Giáo dân và việc truyền giáo của Hội Thánh

GIÁO DÂN VÀ VIỆC TRUYỀN GIÁO CỦA HỘI THÁNH

Lm. Fabrizio Meroni
Lm. Đaminh Ngô Quang Tuyên chuyển ngữ

WHĐ (30-05-2020) – Các “dấu chỉ của thời đại”[1] đòi hỏi chúng ta hiểu sâu hơn về ơn gọi của người giáo dân trong Hội Thánh hôm nay. Một trong những lý do khiến chúng ta đặc biệt quan tâm tới bản chất của giáo dân là để đáp ứng lời kêu gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trong Evangelii Gaudium (số 25) khi ngài nói rằng mọi hoạt động mục vụ của Hội Thánh, dù là trong nội bộ Hội Thánh hay là đến với muôn dân, đều thể hiện bản chất nền tảng của Hội Thánh là ở trong trạng thái truyền giáo mọi lúc và mọi nơi (x. Mt 28,19). Để khôi phục và tái khẳng định tính trọng tâm tuyệt đối của sứ mệnh Đức Kitô đối với bản chất truyền giáo của Hội Thánh, chúng ta phải trở về lại với khoa giáo hội học truyền giáo và hiệp thông của Công Đồng Vaticanô II và lấy đó làm cơ sở vững chắc. Khoa giáo hội học này khẳng định rằng việc chúng ta được tháp nhập vào thân mình Chúa Kitô nhờ Phép Rửa làm cho chúng ta trở nên một trong Chúa và trong Hội Thánh, Thân Thể và Hiền Thê của Người. “Khi trả lời cho câu hỏi, ‘Người tín hữu giáo dân là ai?’ Công Đồng đã vượt qua những lối cắt nghĩa trước kia vốn chủ yếu có tính tiêu cục. Thay vào đó, Công Đồng đã mở ra một cái nhìn tích cực và biểu lộ một ý hướng cơ bản là khẳng định rằng người tín hữu giáo dân thuộc về Hội Thánh và mầu nhiệm Hội Thánh một cách đầy đủ. Đồng thời, Công Đồng nhấn mạnh tính chất độc đáo của ơn gọi giáo dân, đó là đặc biệt ‘tìm kiếm Nước Thiên Chúa bằng việc tham gia vào các công việc trần thế và sắp đặt chúng theo kế hoạch của Thiên Chúa.’”[2]. Tính chất bình đẳng [của các Kitô hữu] được thiết lập trong Phép Rửa, Thêm Sức[3] và Thánh Thể không phải là một sự bình đẳng chung chung hay vô tổ chức. Các bí tích khai tâm Kitô giáo quy tụ chúng ta lại thành một gia đình thực sự của Thiên Chúa. Công Đồng Vaticanô đã khởi sự khẳng định lại căn tính và định hướng truyền giáo của Hội Thánh cho thế giới, và trong sự khẳng định này, các Nghị Phụ đã nói rõ rằng giáo dân đóng một vai trò thiết yếu trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa.

Công trình cứu chuộc của Chúa Kitô cốt yếu nhằm việc cứu rỗi nhân loại, nhưng cũng bao hàm việc canh tân tất cả trật tự trần thế. Do đó sứ mệnh của Giáo Hội không những là đem Phúc Âm của Chúa Kitô và ân sủng của Người cho nhân loại, mà là còn đem tinh thần Phúc Âm thấm nhuần và hoàn thiện những thực tại trần thế. Bởi vậy, trong khi thi hành sứ mệnh này của Giáo Hội, người giáo dân làm việc tông đồ trong Giáo Hội cũng như giữa đời, trong phạm vi thiêng liêng cũng như trong phạm vi trần thế. Hai phạm vi tuy khác biệt, nhưng trong ý định duy nhất của Thiên Chúa, chúng được liên kết với nhau đến nỗi chính Thiên Chúa muốn thâu tóm vũ trụ lại trong Chúa Kitô thành một tạo vật mới, khởi sự ở trần gian và hoàn tất trong ngày sau hết. Trong cả hai phạm vi, người giáo dân, vừa là tín hữu vừa là công dân, phải được hướng dẫn liên tục bằng một lương tâm Kitô giáo duy nhất.[4]

Nhiệm vụ đổi mới trật tự trần thế và tham gia vào công việc trần thế của người giáo dân cũng là nhiệm vụ của chính Hội Thánh. Nhưng việc phục vụ trật tự trần thế là định hướng độc đáo của người tín hữu giáo dân. Như Đức Gioan Phaolô II diễn tả, “các hoạt động trần thế là lãnh vực riêng biệt của người giáo dân, những người phải thực hiện tốt đẹp các công việc trần thế với tinh thần Kitô hữu.”[5]

Như thế, căn tính thần học của người tín hữu giáo dân bao gồm một ơn gọi truyền giáo làm cho người Kitô hữu thuộc về Hội Thánh một cách bí tích bằng việc đặt họ vào trong thế giới với một cách thức độc đáo là trần thế.[6] Tính chất giáo hội và trần thế đồng thời định hình căn tính Kitô hữu của người giáo dân (LG 31, 11, Ad Gentes[7] ChL 15). Khi luận giải về địa vị của người giáo dân, Hans Urs von Balthasar lý luận rằng nơi hay không gian mà người giáo dân chiếm giữ trong Hội Thánh là một thứ khu vực màu xám, hay một “vùng biên giới”, như lời ông diễn tả. Lý do là vì chất liệu mà chính Hội Thánh quan tâm tới là ở trong chính Hội Thánh, và cũng vì chính xã hội trần thế không phải chỉ thuần túy là trần thế nhưng cũng là của Đức Kitô và vì thế được bao gồm trong công trình cứu chuộc của Hội Thánh.

Người giáo dân di chuyển trong vùng biên giới này như một người sống hoàn toàn thoải mái ở trong đó, và ranh giới này quá uyển chuyển đến nỗi không thể có một sự phân biệt rạch ròi giữa tình huống mà người Kitô hữu giáo dân hoạt động như một thành viên của Hội Thánh trong Hội Thánh, và tình huống mà họ hoạt động như một thành viên và đại diện của Hội Thánh trong thế giới không phải Kitô giáo. Sự hiện hữu này ở ngoại biên (giữa Hội Thánh và thế giới) không phải là một khoảng cách từ trung tâm nhưng là một sự hiện hữu trung tâm của Hội Thánh, vì chính Hội Thánh là nơi diễn ra sự hóa thân liên tục của Thiên Chúa trong thế giới, một thực tại phát tỏa và trào vọt ra ngoài chính bản thân Hội Thánh.[8]

“Sự hiện hữu trung tâm của Hội Thánh” này phải được hiểu sâu xa hơn, được chấp nhận và sống nếu chúng ta muốn tiếp tục thi hành sứ mệnh cứu độ của Đức Kitô, Phu Quân của Hội Thánh vì thế giới và toàn thể tạo thành. Là “đại đa số của dân Thiên Chúa” theo cách diễn tả của Đức Thánh Cha Phanxicô,[9] giáo dân là những người được phục vụ bởi những người là thiểu số, nghĩa là các thừa tác viên chức thánh. Việc phục vụ này là vì mục đích phát triển thiêng liêng và bí tích của Dân Thánh Trung Thành của Thiên Chúa trong tư cách họ thuộc về Đức Kitô (x. Mt 5,48). Nhưng sự tham dự độc đáo này của người giáo dân trong sứ mệnh của Đức Kitô nằm trong mối quan hệ giữa Hội Thánh và Thế Giới trong kế hoạch tạo dựng và cứu chuộc của Thiên Chúa. Với hoạt động tông đồ của mình, người giáo dân làm việc cho Nước Thiên Chúa trong vị trí cụ thể của họ trong thế giới (bậc hôn nhân và đồng trinh), trong xã hội dân sự, và trong các khung cảnh văn hóa và nghề nghiệp của họ. Mỗi một ơn gọi Kitô hữu là một lời kêu gọi hoạt động tông đồ và truyền giáo cho thế giới (x. Gl 4,7). Hoạt động tông đồ của người giáo dân biểu thị sự tham dự của họ vào cùng một sứ mệnh duy nhất của Hội Thánh. Đây chính là chỗ diễn tả sự hiểu biết thần học tích cực về người Kitô hữu giáo dân. Cách định nghĩa tiêu cực trước kia là bất cập; không thể chỉ định nghĩa người giáo dân như họ không phải là “giáo sĩ”. Bởi thực tại và tính năng động của Phép Rửa và Thêm Sức của họ, họ được đặt trong thế giới và được kêu gọi truyền giáo trong thế giới theo cách chuyên biệt của họ là do ơn gọi (hôn nhân hay đồng trinh) và do nghề nghiệp để hiện diện trong thế giới. Tính chất trần thế biểu thị điều kiện lịch sử bình thường của toàn thể Hội Thánh mà số phận là được kết hợp trong sự cứu chuộc của toàn thể thế giới (x. Ep 1:3-10). Vì vậy, mọi Kitô hữu mang tính đặc trưng do nơi chốn và không gian chuyên biệt [vị thế] của họ trong thế giới.[10]

Chúng ta chỉ có thể đạt tới một sự “mô tả cơ bản” về người tín hữu giáo dân bằng cách tập trung vào tư cách thành viên Hội Thánh mà họ nhận được nhờ Phép Rửa. Như được nói trong Christifideles Laici, “Việc tháp nhập vào Đức Kitô nhờ đức tin và Phép Rửa là nguồn mạch của tư cách người Kitô hữu trong mầu nhiệm Hội Thánh. Mầu nhiệm này tạo thành những “nét đặc trưng” cơ bản nhất của người Kitô hữu và được dùng làm cơ sở cho mọi ơn gọi và sức năng động của đời sống Kitô hữu của người giáo dân (x. Ga 3,5). Trong Đức Kitô đã chết và sống lại từ cõi chết, những ai đã chịu phép rửa trở nên một “tạo thành mới” (Gl 6,15; 2Cr 5,17), được thanh tẩy khỏi tội lỗi và được đưa vào sự sống nhờ ân sủng.”[11]. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhận xét về tầm quan trọng của khởi điểm cơ bản và nền tảng này trong một lá thư gửi Đức Hồng Y Ouellet.[12] Trong thư, Đức Thánh Cha nhắc cho Đức Hồng Y nhớ rằng không ai có chức thánh do bẩm sinh; đúng hơn, mọi người đã chịu Phép Rửa đều được sinh ra làm Dân Thiên Chúa. Sự sinh ra trong bí tích này chỉ ra rằng, nhờ Chúa Thánh Thần, chúng ta được đặt vào trong thế giới cùng với sự mới mẻ của chính sự sống Chúa Kitô. Trong ngữ cảnh này, Đức Thánh Cha không bao giờ chọn nói về việc rao giảng Tin Mừng như là mới hay cũ; thay vào đó, ngài luôn luôn nói về tinh thần truyền giáo của Hội Thánh. Truyền giáo vì thế là chính căn tính của Hội Thánh,[13] là cách thức bình thường mà Hội Thánh hiện diện trong thế giới. Vì mọi người chúng ta vào Hội Thánh trong tư cách là những giáo dân, mối tương quan giữa đức tin và thế giới nằm ở chính tâm điểm của căn tính cá nhân của mỗi người Kitô hữu. Mối tương quan này tạo thành căn tính truyền giáo của từng người Kitô hữu, bởi vì người Kitô hữu mang thế giới nơi bản thân mình, để biến đổi thế giới ấy trong sự sống của Thiên Chúa và trong mầu nhiệm hoạt động vượt qua của Đức Kitô. Hình thức vượt qua của thế giới là Hội Thánh (Giêrusalem Thiên quốc, Gl 4,20), ở đó thế giới được biến đổi hoàn toàn và được làm mới hoàn toàn (x. Kh 21,5) trong ánh sáng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Vì vậy truyền giáo được trình bày và được tỏ lộ là chính mối tương quan giữa Thiên Chúa và thế giới, hình thức mà chúng ta gọi là Hội Thánh Thánh Thể. Được hiểu là mối tương quan giữa Hội Thánh và thế giới, việc truyền giáo nhìn thế giới một cách toàn diện với chính căn tính của Hội Thánh, một căn tính được tạo thành bởi định hướng của Hội Thánh trong và cho sự cứu rỗi của thế giới mà Hội Thánh có sứ mệnh cứu rỗi và biến đổi toàn thể thế giới và toàn thể tạo thành. Theo lời Đức Gioan Phaolô II, “không phải là cường điệu khi nói rằng toàn thể sự hiện hữu của người tín hữu giáo dân có mục đích là dẫn đưa một người tới sự hiểu biết về sự mới mẻ triệt để của đời sống Kitô hữu phát sinh từ Phép Rửa, bí tích đức tin, khiến cho sự hiểu biết này có thể giúp người ấy sống các trách nhiệm bắt nguồn từ ơn gọi nhận được từ Thiên Chúa.”[14] Đức Thánh Cha nói tiếp: “Như vậy, ‘thế giới’ trở thành nơi chốn và phương tiện để người tín hữu chu toàn ơn gọi Kitô hữu của họ, vì chính thế giới được tạo dựng để tôn vinh Thiên Chúa Cha trong Chúa Kitô… Địa vị của người tín hữu giáo dân, do đó, được định nghĩa một cách cơ bản bởi sự mới mẻ của họ trong đời sống Kitô hữu và được phân biệt bởi tính chất trần thế của họ.”[15]

“Sự phân biệt phẩm trật giữa giáo sĩ-giáo dân thì phụ thuộc sự bình đẳng triệt để của mọi thành viên của Hội Thánh. Yếu tố cơ bản hơn bất kì ơn gọi hay thừa tác vụ cụ thể nào chính là hành vi đức tin như là một “công trình” của sự tự hiến, cố gắng đạt sự trọn lành Kitô hữu, thánh hóa mình trong công việc nghề nghiệp, và nhờ công việc này mà thánh hóa người khác.”[16] Thực tại Phép Rửa làm cho mọi người chúng ta thành Kitô hữu, những thành viên sống động của Hội Thánh, thực tại ấy giúp cho các tín hữu giáo dân và các thừa tác viên chức thánh được đặt vào mối tương quan độc đáo và cá vị của mỗi người với thế giới nhờ Đức Kitô. Chúng ta sống trong thế giới của Thiên Chúa để lãnh nhận một nhiệm vụ truyền giáo không thể thay thế nhờ ơn gọi của mình. Không ai được đặt vào trong thế giới một cách chung chung, không ai được miễn chước một sứ mệnh. Vì Phép Rửa xức dầu thân xác và linh hồn chúng ta bằng Chúa Thánh Thần, chúng ta tham gia một cách thể lý vào việc hoán cải bản thân và biến đổi thế giới. Nhiệm vụ của người giáo dân không thể được giản lược đơn thuần vào chức năng hoạt động theo cách riêng của mỗi người là thành phần của cộng đoàn Kitô hữu địa phương trong các nhu cầu phụng vụ, huấn giáo và bác ái mà thôi.

Chúng ta thường bị cám dỗ nghĩ rằng những giáo dân dấn thân là những người hiến mình cho các công việc của Hội Thánh và/hay các công việc của giáo xứ hay giáo phận, và chúng ta thường ít nghĩ đến việc làm thế nào đồng hành với những người đã được rửa tội trong đời sống công cộng và thường ngày của họ: đồng hành với họ thế nào trong các hoạt động hằng ngày của họ, với các trách nhiệm họ có, họ dấn thân thế nào trong tư cách là những Kitô hữu trong đời sống công cộng. Một cách vô tình chúng ta đã tạo ra một nhóm giáo dân tinh hoa, tin rằng chỉ có những giáo dân dấn thân mới là những người làm việc trong các công việc “của các linh mục”, và chúng ta đã bỏ quên, làm ngơ những tín hữu thường rất cháy bỏng niềm hy vọng của họ trong cuộc đấu tranh hằng ngày để sống đức tin. Đây là tình huống mà chủ nghĩa giáo sĩ trị không nhận ra, vì nó quan tâm nhiều hơn tới việc làm chủ các không gian hơn là tạo ra các sáng kiến. Do đó chúng ta phải nhìn nhận rằng các giáo dân – nhờ thực tại của họ, nhờ căn tính của họ, vì họ sống chìm ngập trong đời sống xã hội, công cộng và chính trị, tham gia các hình thức văn hóa liên tục được sinh ra – họ cần những hình thức mới mẻ trong việc tổ chức và trong việc sống đức tin.[17]

Chủ nghĩa giáo sĩ trị chọn một sự ngộ nhận chức năng và bóc lột người Kitô hữu giáo dân[18], theo đó toàn thể Hội Thánh bị giản lược vào những hoạt động mục vụ quan liêu và quản trị giáo xứ. Chủ nghĩa giáo sĩ trị hay duy mục vụ thích lôi kéo người giáo dân tham gia nặng nề vào đời sống giáo xứ hay giáo phận để tận dụng ơn gọi của họ, năng lực chuyên môn của họ, được hiểu như là khả năng tự do, sáng tạo và thông minh để tương tác với thế giới bằng cách biến đổi thế giới trong lãnh vực nghề nghiệp và đời sống gia đình của một người. Trái ngược với thái độ nói trên là cách sống bình thường trong đó những người giáo dân thể hiện sứ mệnh Phép Rửa của mình. Theo nghĩa này, “chuyên nghiệp” được hiểu là sự hiến mình hoàn toàn với năng lực và sự phấn khởi trong ơn gọi làm cha mẹ nhờ mối quan hệ vợ chồng[19] song song với loại công việc và nghề nghiệp cụ thể của mỗi người (x. Ep 5,24-33). Những người có thể là bị thiểu năng về thể lý, luân lý, tâm lý hay tâm thần thuộc loại này vẫn có thể trở thành những người cộng tác vào sứ mệnh của Hội Thánh (và vì thế cộng tác vào căn tính toàn diện của Hội Thánh) bằng cách dâng hiến bản thân mình, trong Thánh Thể, để kết hợp với cuộc Khổ Nạn của Đức Giêsu, mang lại những hoa trái tùy theo các tình huống bi thương, đau khổ và khốn khó của bản thân họ.

Căn tính trần thế của người Kitô hữu giáo dân thường được phác họa một cách rất lộn xộn và không xác định trong các văn kiện của Hội Thánh (Lumen Gentium 31; Evangelii Nuntiandi 70, Christifideles Laici 15). Tuy Hội Thánh đã cẩn thận tránh cách định nghĩa tiêu cực “không phải là giáo sĩ”, nhưng giáo huấn của Hội Thánh vẫn xác định tính chất trần thế một cách chung chung như là một tổng số các thực tại rời rạc (đời sống gia đình, nghề nghiệp, tham gia các vấn đề chính trị và xã hội, kinh tế và khoa học, hôn nhân và đạo đức sinh học, văn hóa và nghệ thuật, thể thao và sinh thái, tình yêu vợ chồng và tình dục, kỹ thuật và thị trường). Thế giới mà người Kitô hữu giáo dân được đặt vào để sống trong đó thường được mô tả như là một sự pha trộn không rõ rệt các khía cạnh khác nhau, cách mô tả này khiến nó không thể phân biệt thỏa đáng giữa giáo sĩ và giáo dân. Xét về phương diện nhân học và thần học, các vấn đề về hôn nhân và gia đình, tình yêu vợ chồng và quà tặng sự sống không thể gộp chung lại với các khía cạnh chỉ về các vấn đề xã hội, văn hóa và kinh tế. Thực vậy, khi gộp chung lại như thế, các thực tại không quan trọng về đời sống được pha trộn với các thực tại thân thiết hơn với đời sống con người. Tình yêu, sự kết hợp thân xác, sự sống mới, con cái và sự chăm sóc bản thân trong các mối quan hệ mới mẻ của cha mẹ và gia đình, tất cả các thực tại này đều xuất phát từ hôn nhân và gia đình để trở thành một ơn gọi, một sự cam kết suốt đời, lời đáp tự do trước tiếng gọi của Thiên Chúa để được đặt trong thế giới (bậc sống) vì sự hoàn thành và sự thánh thiện của con người. Quà tặng sự sống mới nhờ sự kết hợp vợ chồng trong hôn nhân tỏ lộ cho chúng ta thấy rằng hôn nhân và gia đình chính là con đường bình thường và thông thường mà qua đó người giáo dân được gọi để tự do cộng tác với ý muốn của Thiên Chúa để ban sự sống và sự sống dư dật (Ga 10,10). Thay vì chỉ là sự sản xuất đơn thuần của nghề nghiệp, sự sinh sản trong tình yêu là cách thức mà những người giáo dân đã kết hôn tham dự vào tính sáng tạo của Thiên Chúa, và bằng cách này, họ giúp đưa thế giới tiến gần hơn tới sự hoàn thành cuối cùng của nó.

Đỉnh điểm của sự tham dự này vào tính sáng tạo của Thiên Chúa là việc đưa một con người mới sinh vào Dân Thánh của Thiên Chúa trong bí tích Rửa Tội. Trong Rửa Tội, con người mới sinh này được đưa vào sự sống của chính Thiên Chúa, một sự sống đã được đổ ra cho chúng ta và cho toàn thể thế giới trong các biến cố của Mầu Nhiệm Vượt Qua. Công việc lao động không chỉ là một nghề, nó biểu thị chiều kích cấu tạo của đời sống con người, cả cho việc cung cấp các nhu cầu vật chất cũng như sự hoàn thành cá nhân, và phải được xét đến dựa trên bậc sống hôn nhân hay đồng trinh và được định hình bởi các bậc sống này.[20] Đàng khác, các vấn đề xã hội và sức khỏe, chính trị, khoa học, văn hóa, sinh thái, nghệ thuật, thể thao là những trải nghiệm trần thế cho sự dấn thân của người Kitô hữu trong đó sự sống và sự cứu rỗi được ban tặng nhưng không bao giờ nhờ một sự cam kết sâu xa và không thể đảo ngược giống như trong đời sống vợ chồng và gia đình hay trong sự cam kết của bậc sống đồng trinh. Chỉ trong và nhờ hôn nhân và gia đình hay nhờ bậc sống đồng trinh – diễn tả một sự kết hợp độc đáo của thân xác trong tình yêu – các Kitô hữu được yêu cầu suy phục và hoàn toàn hiến mình cho Thiên Chúa vì sự sống của con người và của Thiên Chúa. Hôn nhân và đồng trinh thánh hiến cho thấy việc trao hiến mình cho Thiên Chúa và cho người khác là một hành vi sâu xa, bền vững, đòi hỏi, vui vẻ và hiệu quả biết bao.

Sự hiểu biết sâu rộng hơn về sứ mệnh của Hội Thánh như là mối quan hệ giữa Thiên Chúa và thế giới nhờ đời sống của chúng ta, sẽ giúp phân bổ cho giáo dân và giáo sĩ vị trí đúng của mỗi bậc sống trong cơ cấu bí tích và đoàn sủng của Hội Thánh Chúa Kitô. Chỉ có sứ mệnh và chứng tá của Kitô hữu mới có thể chiếu đủ ánh sáng cho sự nhận thức thỏa đáng về bản chất và vai trò của mỗi ơn gọi trong thân thể đã được rửa tội của Hội Thánh. Thực vậy, mối tương quan của Phép Rửa với hôn nhân và đồng trinh là chiều kích tư tế đích thực của Hội Thánh, hiểu như là thế giới được cứu chuộc trong Thiên Chúa. Chức tư tế cộng đồng trong Phép Rửa của mọi Kitô hữu giúp chúng ta được tháp nhập vào sự hiến dâng của Chúa Giêsu Kitô cho Chúa Cha bằng cách chúng ta hiến dâng bản thân chúng ta, đời sống chúng ta, làm của lễ thân xác sống động. Các bậc sống biểu thị ‘cách thức’ chúng ta được đặt như thế nào trong thế giới và được đặt như là thế giới trong Thiên Chúa và trong kế hoạch cứu rỗi của Người. Sự thiếu vắng một cơ sở cánh chung và vượt qua thỏa đáng cho thấy rằng Hội Thánh ngày nay vẫn còn được cơ cấu dựa trên các thừa tác vụ, là chức thánh, tu sĩ và giáo dân.[21] Cơ cấu ba phần này chỉ đơn thuần mô tả sự giản lược cộng đoàn thành một sự phân chia các quyền bính và các vai trò. Ngày nay, một sự hiểu biết như thế không còn đứng vững nữa. Hơn nữa, chúng ta cần nhớ rằng bí tích truyền chức thánh không phải là một bậc sống: có thể coi như tương tự với một ơn gọi, nhưng nó không biểu thị nếp sống riêng và độc quyền của người tín hữu có chức thánh trong tương quan của họ với thế giới vì vinh quang Thiên Chúa và vì phần rỗi của họ. Hơn nữa, thừa tác vụ chức thánh cũng cần có đời sống đồng trinh thánh hiến hay hôn nhân để được đặt đúng chỗ trong sứ mệnh của Hội Thánh cho thế giới.

Việc hiểu biết yếu tính và sứ mệnh của giáo dân, theo bối cảnh lịch sử cụ thể của chúng ta, đòi chúng ta suy nghĩ và đánh giá lại các cách chúng ta quan niệm về thừa tác vụ của những người có chức thánh để tương tác với nhiệm vụ của giáo dân.[22] Phần lớn chúng ta từng đồng hóa linh mục với chức năng của họ, coi họ thuần túy chỉ là người đứng đầu cộng đoàn, chuyên lo các cuộc hội họp của giáo xứ và tham dự các hội nghị, lãnh đạo các ủy ban, và điều hành các hoạt động mục vụ. Cách nhìn này đã khiến chúng ta không thấy được yếu tính bí tích và Thánh Thể của chức linh mục. Việc truyền giáo, được quan niệm theo hướng chúng ta đã phác họa là biến đổi và đổi mới toàn thể thế giới, cũng hiện hữu để khôi phục các giám mục, linh mục và phó tế trở về với chỗ đứng đúng của họ trong khung cảnh phép rửa chung của Dân Thiên Chúa. Có một sự khác biệt về yếu tính giữa thừa tác vụ chức thánh và chức tư tế chung của Dân Thiên Chúa trong phép rửa (không chỉ là sự khác biệt về mức độ; x. LG, 10). Thế nhưng sự khác biệt bí tích này có mục đích phục vụ sự Kế Tục Tông Đồ và sự hiệp nhất trong Hội Thánh để phục vụ Thánh Thể, bí tích hòa giải và quyền giáo huấn cũng như phục vụ việc bảo vệ Chân Lý. Được Thánh Thần thúc đẩy trong việc nghe lời Sách Thánh và trung thành vâng phục Huấn Quyền phổ quát của Hội Thánh Công Giáo và của các vị Giáo Hoàng gần đây, thừa tác vụ chức thánh và bản chất bí tích và sứ mệnh của thừa tác vụ này cần phải được suy nghĩ lại và hiểu một cách thấu đáo vì sứ mệnh của Hội Thánh và vì phần rỗi của thế giới. Đi theo truyền thống tông đồ, cần phải thấu triệt chức tư tế thừa tác và chức tư tế cộng đồng của phép rửa mà không giảm nhẹ tính bí tích nội tại của chức tư tế thừa tác và không làm mờ nhạt yếu tính của nó đối với sự thật và sự hiện hữu của Hội Thánh Công Giáo ở trần gian này. Bằng việc tránh mọi cách hiểu việc phục vụ các nhu cầu cộng đoàn theo quan điểm chức năng, chức tư tế thừa tác phải được hiểu theo quan điểm bản thể học và có sự liên kết mạnh hơn với Thánh Thể và bí tích hòa giải bằng sự tha tội nhằm thực thi thừa tác mục vụ.

Cuối cùng, trên cơ sở sự cứu rỗi cánh chung, sự phân biệt thực sự chỉ hệ tại bậc hôn nhân và bậc đồng trinh, hai bậc sống dựa trên Phép Rửa, các cách thức thường xuyên mà ở đó thế giới và thân xác chúng ta trở thành nơi chốn và không gian cho sự mặc khải và cứu độ hiệu quả của Thiên Chúa cho chúng ta và cho thế giới. Trong Thư 1 Corinthô chương 7, Thánh Phaolô nhắc đến hai hình thức chính và phong phú nhất của đời sống Kitô hữu là hôn nhân và độc thân. Chúng ta được Chúa ban một món quà (đặc sủng) như là một ơn gọi của Chúa để chúng ta đi theo một trong hai hình thức này, đồng thời biết rằng cả hôn nhân hay đồng trinh đều không chỉ thuần túy là một lựa chọn của con người.[23] Tính chất trần thế tích cực của Hội Thánh (x. Ga 15,19) và sứ mạng phổ quát của Hội Thánh diễn ra nơi thân xác cụ thể của mỗi thành viên đã rửa tội của Dân Thiên Chúa, những người nghiêm túc dấn thân và hội nhập trong thế giới. Giữa thế giới, Phép Rửa và Phép Thánh Thể định hình thân thể người Kitô hữu thành Thân Thể Chúa Kitô, sự hiện diện bí tích tích cực của Hội Thánh Người.[24] Chiều kích hiện sinh trần thế của người giáo dân được tỏ lộ một cách cơ bản là mang tính chất Thánh Thể bởi vì sự hoán cải đời sống của họ (sự biến hình thân xác con người của họ để phục vụ sứ mệnh của Hội Thánh) tạo cho họ có đủ tư cách để dấn thân truyền giáo nhằm biến đổi thế giới, vì mục đích tôn vinh Thiên Chúa qua hoạt động truyền giáo (Rm 12,1-2; 1 P 2,4-10).