Một chút suy tư về Phó Tế và con đường phục vụ Hãy Tập Chết Mỗi Ngày

Dẫn nhập:
Trong những tháng đầu của năm Canh Tý (2020), cả thế giới lao đao về cơn đại dịch Covid-19. Đâu đâu, từ Á sang ÂU, từ Bắc Mỹ tới Nam Mỹ, từ những quốc gia giàu có, văn minh hàng đầu như Nhật, Đức, Mỹ, Ý, Nga, Tàu…đến những nước nghèo đang phát triển như Philippines, Indonesia…đều chật vật, khốn đốn với con virus Corona bất trị và cũng rất bí hiểm.
Tuy nhiên, ở giữa cơn đại dịch với bao cảnh tang tóc, chết chóc, thất vọng… thế giới vẫn còn loé lên đây đó những gương mặt thánh thiện, những hành vi can đảm, những nghĩa cử nhân văn, những mẫu gương phục vụ…đã làm cho nhiều người ấm lòng và mang lại niềm hy vọng cho thế giới. Đó là những con người hy sinh và can đảm phục vụ cho tới chết như bác sĩ Lý Văn Lượng ở Vũ Hán; như các bạn trẻ Băng Trịnh, Giulia ở Đức, dùng những tờ giấy nhỏ dán ở chung cư để sẵn sàng phục vụ những người già yếu, ngheo đơn…[1]
Riêng trong môi trường hoạt động mục vụ của Giáo Hội Công Giáo, giai đoạn thương đau của mùa đại dịch nầy cũng là thời khắc để mọi thành phần của Giáo Hội làm chứng về căn cước Kitô hữu của mình: các nữ tu phục vụ âm thầm trong các bệnh viện, các linh mục tuổi già sức yếu trung thành với công tác mục vụ chăm sóc bệnh nhân hay những nhân viên, y bác sĩ quây quần cầu nguyện rồi ra đi “đối đầu” với những đe doạ, thách đố của lây nhiễm hay chết chóc…
Chúng ta cũng đừng quên, một huấn dụ quan trọng đi kèm với một “dấu chỉ” đã trở thành như “bí tích” mà Chúa Giêsu đã ân cần trao cho các môn sinh trong “Giờ phút cao điểm thiết lập bí tích Thánh Thể và chức linh mục vào ngày thứ năm trước khi chịu nạn”, đó là “bài học Rửa Chân”: “Vậy, nếu Thầy là Thầy, là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau” (Ga 13, 13).
Nếu ơn gọi và cũng là căn tính của chức Phó tế chính là phục vụ, là “rửa chân cho anh chị em mình”, thì phải phục vụ, phải “rửa chân” thế nào đây?
I. MỘT THOÁNG VỀ Ý NGHĨA “PHỤC VỤ”.
1. Phục vụ trong quan niệm chung:
Chúng ta có thể mượn cách cắt nghĩa của linh mục Aug. Trần Cao Khải để tóm tắt ý nghĩa của “phục vụ”: “Phục vụ là sử dụng khả năng, sức lực, tài khéo của mình để làm những công việc vì lợi ích chung hay giúp đỡ người khác thông qua những việc thiết thực nhờ đó con người và cuộc sống của họ được thăng tiến mọi mặt. Nói cách nôm na, phục vụ là giúp đỡ, là làm đầy tớ, là bạn đồng hành chăm lo người khác và quan tâm đến những nhu cầu thiết thực của họ. Ta có thể thấy, trong gia đình ông bà cha mẹ phục vụ con cháu, anh chị em phục vụ lẫn nhau, con cháu phụng dưỡng ông bà cha mẹ. Ngoài xã hội, mỗi người là một thành phần đóng góp công sức phục vụ nhân quần xã hội. Trong Hội thánh, trong cộng đoàn lớn nhỏ, mỗi người là một chi thể sống và làm việc vì lợi ích cho tập thể.
Vậy thì ai cũng là một người phục vụ. Nhưng để trở thành người phục vụ tốt, gương mẫu, xứng đáng thì chúng ta cần hội đủ một số đức tính căn bản, chẳng hạn như khiêm tốn, quảng đại, tế nhị, tận tâm và hy sinh quên mình.”[2]
2. Phục vụ và chức Phó tế của Hội Thánh:
Trong sách “TỰ ĐIỂN Công Giáo” của Uỷ Ban Giáo Lý Đức tin thuộc HĐGMVN xuất bản năm 2016, mục từ Phó Tế được định nghĩa như sau:
Phó tế, tiếng Hy Lạp (Diakonos), có nghĩa là người phục vụ. Phó tế là người đã được giám mục đặt tay trao ban thừa tác vụ thánh để cọng tác với giám mục và linh mục trong việc phục vụ Dân Chúa (x. LG 29). Thừa tác vụ phó tế bắt nguồn từ việc Nhóm Mười Hai truyền chọn bảy người “được tiếng tốt, đầy Thần Khí và khôn ngoan” để đặt tay cầu nguyện và giao cho họ phục vụ việc ăn uống của các tín hữu, đặc biệt là các “bà goá Do Thái theo văn hoá Hy Lạp”. Việc làm của họ giúp các Tông Đồ có thời gian để “chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa” (x. Cv 6, 2-6)[3]
Trong khi đó, chúng ta gặp từ “phục vụ” được lặp đi lặp lại nhiều lần trong nghi thức phụng vụ truyền chức phó tế:[4]
– Trong Lời nguyện nhập lễ: “Lạy Chúa, Chúa đã dạy các thừa tác viên của Hội Thánh Chúa đừng muốn được phục vụ nhưng phải phục vụ anh em; chúng con nài xin Chúa cho các tôi tớ Chúa đây mà hôm nay được Chúa thương chọn lên chức Phó tế, biết khôn ngoan trong hành động, kiên trì trong cầu nguyện và hiền lành trong phục vụ…”
– Trong lời huấn dụ phần nói với cộng đoàn: “…Nhờ ơn Chúa, họ làm những công việc ấy, để anh chị em biết rằng họ thật sự là môn đệ của Đấng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ.”
– Trong lời huấn dụ phần nói với các tiến chức phó tế: “Các con thân mến, các con sắp lên chức Phó Tế. Chúa đã nêu gương để các con làm theo như Người đã làm. Vậy, Phó Tế là những thừa tác viên của Đức Giêsu Kitô, Đấng ở giữa các môn đệ như người phục vụ, các con hết lòng làm theo ý Thiên Chúa trong lòng mến, các con hân hoan phục vụ Chúa thế nào thì hãy hân hoan phục vụ người ta thế ấy…”
– Trong Lời nguyện Phong chức: “…Lạy Cha, chúng con xin Cha sai Chúa Thánh Thần xuống trên các thầy, để nhờ Người, các thầy được bảy ơn Cha thêm sức, sẽ trung thành thi hành thừa tác phục vụ…”
II. NHÂN ĐỨC RIÊNG CỦA NGƯỜI PHỤC VỤ: KHIÊM NHƯỜNG
Trong Tin Mừng có một “câu chuyện” liên quan đến chuyên đề “PHỤC VỤ” rất hay mà có lẽ không người Kitô hữu nào lại không biết đến. Tin Mừng Matthêô tường thuật câu chuyện đó như sau:
Bấy giờ bà mẹ của các con ông Dê-bê-đê đến gặp Đức Giê-su, có các con bà đi theo; bà bái lạy và kêu xin Người một điều. Người hỏi bà: “Bà muốn gì? ” Bà thưa: “Xin Thầy truyền cho hai con tôi đây, một người ngồi bên hữu, một người bên tả Thầy trong Nước Thầy.” Đức Giê-su bảo: “Các người không biết các người xin gì! Các người có uống nổi chén Thầy sắp uống không? ” Họ đáp: “Thưa uống nổi.” Đức Giê-su bảo: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được.” Nghe vậy, mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó. Nhưng Đức Giê-su gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Giữa anh em thì không được như vậy: Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mt 20, 20-28)
Chúng ta dễ dàng nhận ra “điểm nhấn giáo huấn” của Đức Kitô dành cho các Tông Đồ, những người được chọn gọi tiếp nối Ngài trong sứ mệnh phục vụ đó là phải khiêm tốn tự hạ, phải uốn mình trở nên “những người đầy tớ anh em”.
Qua đó, chúng ta có thể xác quyết rằng: nhân đức căn bản của người phục vụ đó chính là KHIÊM NHƯỜNG.
1. Soi vào gương khiêm nhường của Đức Kitô:
1.1. Đức Ki-tô khiêm nhường trong mầu nhiệm nhập thể:
Để giúp suy niệm về sự khiêm nhường của Đức Ki-tô trong mầu nhiệm Nhập Thể, có lẽ đoạn thư của Thánh Phao-lô sau đây là một gợi ý thích hợp:
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân giống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nổi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. (Pl 2, 6-8).
– Đức Ki-tô khiêm nhường khi tự xoá mình đi: Là Thiên Chúa, Ngài đã “hạ cố” thẳm sâu, đã đi xuống hết cỡ: “làm người và ở cùng chúng ta” (Ga 1, 14). Một sự trút bỏ kỳ diệu, một sự xoá mình lạ lùng. Huyền nhiệm nầy chúng ta không thể lý giải bằng lý trí. Mà thực vậy, “con tim có những lý do mà lý trí không sao hiểu nổi”. Vâng, sự khiêm hạ thẳm sâu đó chỉ có thể cắt nghĩa bằng tình yêu và thực hiện với tình yêu.
Học sự khiêm nhường của Đức Ki-tô trong khía cạnh nầy dó là từng ngày hạ mình xuống, xoá mình đi, xem cái tôi, xem địa vị là “nhỏ rức”. Thực hiện việc “hạ mình” như thế quả không dễ đối với bản tính hư hèn chuộng cái “danh”, cái “lợi”, cái tăm tiếng, cái sĩ diện hảo của “nòi con cháu A-dong”. Miệng thế gian đã chẳng nói rằng: “Ninh thọ tử bất ninh thọ nhục” (thà chết chẳng thà chịu nhục). Hay “Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”.
Như thế, khi chúng ta bị xúc phạm, bị lăng nhục, bị xem thường, bị kết án, bị phán đoán, đánh giá sai…hãy nhớ ngay đến “Đức Ki-tô đã trút bỏ vinh quang…”.
– Đức Ki-tô khiêm nhường khi “mặc thân nô lệ, nên giống phàm nhân”: Trút bỏ, hạ cố, xoá mình để dấn thân vào một “sự hiện hữu mới”, một môi trường mới, một vị trí mới nhỏ nhất, thấp nhất. Noi gương Đức Ki-tô khiêm nhường đó là biết từng ngày dấn thân đón nhận cái phận hèn, cái tăm tối, cái bị lãng quên, cái không ai chuộng. Đây lại cũng là một điều khó. Vì thường tình, ai mà không thích chọn cho mình một chỗ tốt, một địa vị khá, một môi trường làm việc, sinh sống đàng hoàng, một công việc có giá trị, một sự công nhận về giá trị bản thân. Chọn lựa Đức Kitô khiêm hạ là bình thản theo Ngài trong tự do và yêu thương, trong vui tươi và hạnh phúc trên mọi nẻo đường của hy sinh, tăm tối, thấp hèn, nhỏ bé.
1.2. Đức Ki-tô khiêm nhường trong cung cách ứng xử với tha nhân:
– Chấp nhận làm “một người phục vụ”:
“Bởi lẽ giữa người ngồi ăn với kẻ phục vụ, ai lớn hơn ai? Hẳn là người ngồi ăn chứ? Thế mà, Thầy đây, Thầy sống giữa anh em như một người phục vụ” (Lc 22, 27; Ga 13, 1-15).
– Không phân biệt đối xử: Người thu thuế, gái điếm, kẻ phung cùi, biệt phái, đàn bà, con nít…tất cả đều có thể đối diện, gặp gỡ, rờ đụng, ăn uống với Chúa Ki-tô.
– Quan tâm đặc biệt những người nghèo: Cái tính “cách mạng và triệt để” của nhân cách và sứ điệp của Đức Ki-tô phải chăng đó là sự quan tâm đặc biệt đối với những người nghèo (về cả hai phương diện: thể xác cũng như tinh thần), những người bị loại trừ, những kẻ thấp cổ bé miệng, những người bị ruồng bỏ, kết án.
Sống sự khiêm nhường của Đức Ki-tô trong cách ứng xử với tha nhân đó chính là biết mở lòng đón nhận mọi người, không trừ ai, không định kiến lựa chọn, nhưng tìm thấy mọi người trong trái tim yêu thương và lòng kính trọng; đó chính là biết quan tâm đặc biệt đến những phần tử nhỏ bé, ít ỏi, bị thiệt thòi, bịnh hoạn, ít học, không có những đặc điểm (nhan sắc, trí khôn, gia cảnh…) đang hiện diện trong cộng đoàn và chung quanh ta; đó cũng chính là sẵn sàng cúi xuống để phục vụ, sẵn sàng đảm nhận mọi công tác, nhiệm vụ thấp hèn, tăm tối.
1.3. Đức Ki-tô khiêm hạ trong cuộc khổ nạn:
Cuộc khổ nạn của Đức Ki-tô phải chăng là “điểm đến” cuối cùng của sự tự hạ, của cuộc hạ cố: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự”. (Pl 2, 8). Chiêm ngưỡng cuộc khổ nạn, nhìn lên Thập giá của Đức Ki-tô chúng ta dễ nhận ra bao nhiêu bài học của sự tự khiêm tự hạ. Sống sự khiêm hạ của Đức Ki-tô trong mầu nhiệm nầy đó chính là mỗi ngày can đảm đón nhận mọi chén đắng của khổ đau trong tâm hồn và thể xác, những tủi cực của bịnh hoạn tật nguyền riêng ta hay của mọi người chung quanh, những hiểu lầm, bị kết án bất công, những giới hạn trong khả năng, những thua thiệt trong quyền lợi, cả những tính hư tật xấu của mình hay của những người khác.
Ngày hôm nay, sự tự hạ của Đức Ki-tô vẫn còn đang tiếp diễn mỗi ngày qua “Thân Thể mầu nhiệm của Ngài” là Hội Thánh, qua “Nhiệm tích Thánh Thể”, qua những người nghèo khắp nơi trên thế giới. Đặc biệt, nhờ sự tự hạ trong bí tích Thánh Thể của Đức Ki-tô mà chúng ta nhận được lương thực trường sinh; nhờ sự xoá mình kỳ diệu nầy, Đức Ki-tô đã trở nên “tấm bánh được bẻ ra” để nhân loại được trao phần sự sống vĩnh cửu. Chỉ khi nào chúng ta cảm nhận sâu xa cái bé bỏng, giới hạn, tầm thường của thân phận mình trước tình yêu bao la và quyền năng vô cùng của Thiên Chúa để rồi biết xoá mình và yêu thương phục vụ như Ngài chúng ta mới có thể thanh thản hát lên cùng với Đức Ma-ri-a, Người Đầy tớ khiêm hạ của Thiên Chúa, bài Magnificat:
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng…” (Lc 1, 46-55).
(Đọc thêm: Tầm quan trọng của đức Khiêm Nhường trong bài viết Đức Khiêm Nhường của lm. Giuse Nguyễn Ngọc Tuyên)[5]
2. Vài đề nghị thực hành sống đức khiêm nhường:
2.1. Chấp nhận “sự thật của chính mình”:
– Chấp nhận sự thật của chính mình và sống trung thực.
– Đón nhận những khả năng, ơn lành…với tâm tình tạ ơn, trông cây.
– Chấp nhận khuyết điểm, yếu hèn…với trái tim khiêm hạ, phó thác.[6]
2.2. Coi nhẹ “cái tôi”:
– Phục vụ không để “được ưa thích”.
– Phục vụ không để “làm nổi cái tôi”.
– Phục vụ không cần được đền đáp.[7]
Kết: Để sống và phục vụ cách khiêm nhường hãy tập “chết” mỗi ngày
Vâng, đây là lời khuyên của vị linh mục khôn ngoan, lão thành trong một tu viện dành cho một tu sĩ trẻ của câu chuyện được kể bởi cha Giuse Nguyễn Ngọc Tuyên trong bài khảo luận mang tên “Đức Khiêm Nhường”:
– Tốt lắm! Vậy thì, con hãy sống như thầy An-tôn đang nằm dưới nấm mồ ấy. Hãy sống như một người đang chết, con hãy coi như mình đã chết, bởi vì người chết sẽ không còn biết phản ứng gì trước những lời tâng bốc khen ngợi hay lăng mạ mắng chửi. Khi con xem mình như kẻ đã chết, con sẽ tìm được bình an vô tận. Con sẽ từ bỏ được chính bản thân con.[8]

Lm. Giuse Trương Đình Hiền