Những đặc điểm xác định tác vụ giám mục

GIÁM MỤC – THỪA TÁC VIÊN CỦA TIN MỪNG ĐỨC GIÊSU KITÔ, PHỤC VỤ NIỀM HY VỌNG THẾ GIỚI

BÀI 2:
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM XÁC ĐỊNH TÁC VỤ GIÁM MỤC

Tác giả: Hội đồng Giám mục Việt Nam, năm 1998

WHĐ (9.10.2020) – Đại Hội Bất Thường Lần Thứ Hai của Thượng Hội Đồng Giám Mục (THĐGM) đã chỉ ra sự hiệp thông (“koinonia”) sẽ là ý niệm trung tâm của khoa Giáo Hội học của Vatican II. Đã có mặt trong truyền thống sống động của Giáo Hội và nằm trong di sản chung của Giáo Hội Đông và Tây gần như hết cả Ngàn năm thứ nhất Kitô giáo, khoa Giáo Hội học này chính là đường đưa tới sự canh tân đời sống Giáo Hội, cũng như là nền tảng cho tất cả công tác mục vụ của Giáo Hội bao lâu còn lữ hành trong lịch sử nhân loại.[1]

Giáo Hội là một mầu nhiệm hiệp thông, khẳng định ấy không phải chỉ áp dụng đối với những cơ cấu bên ngoài của Giáo Hội, mà đúng hơn có liên hệ tới bản chất sâu xa và thực tại bên trong của Giáo Hội, đụng chạm tới tâm điểm của mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Thật vậy, như Công Đồng đã nhắc, Giáo Hội là một dân được liên kết với nhau phỏng theo sự hiệp nhất giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần;[2] Giáo Hội xuất phát từ Ba Ngôi, tồn tại trong Ba Ngôi và đang đi về với Ba Ngôi. “Những gì làm nên và xác định bản chất cũng như sứ mạng của Giáo Hội, theo ý muốn của Đấng vừa sáng lập vừa là nền tảng của Giáo Hội, cũng chính là bản chất và sứ mạng của chức giám mục”.[3]

1. QUAN HỆ CỦA TÁC VỤ GIÁM MỤC VỚI THIÊN CHÚA BA NGÔI

Mỗi Kitô hữu có bản sắc thế nào thì được mặc khải trong mầu nhiệm Giáo Hội, vốn được coi là mầu nhiệm hiệp thông của Thiên Chúa Ba Ngôi khi hướng ra ngoài để truyền giáo. Vì thế, tác vụ giám mục có ý nghĩa và mục tiêu thế nào, điều đó cũng phải nhìn vào trong Giáo Hội của Thiên Chúa Ba Ngôi mà tìm hiểu, vì Giáo Hội được sai đi là để chiêu mộ các môn đệ và rửa tội cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần (x. Mt 28,18-20).

Thế nên, nhìn vào các tương quan giữa mỗi giám mục với các tín hữu thuộc về Giáo Hội địa phương được giao cho ngài, ta phải thấy phản ánh những quan hệ giữa các ngôi Thiên Chúa, ba mà là một: Chúa Cha là nguồn của hết mọi quyền bính; Chúa Con là nguồn của mọi sự phục vụ và Chúa Thánh Thần là nguồn của sự hiệp thông. Như vậy, “ý niệm hiệp thông đã đưa ta tới tận nguyên thuỷ của đời sống Ba Ngôi Thiên Chúa, mà ta sẽ gặp lại nơi ân sủng và tác vụ giám mục. Giám mục là hình ảnh của Chúa Cha, là người tái hiện lại khuôn mặt của Đức Kitô Mục Tử Tốt Lành và là người đã nhận được đầy đủ Chúa Thánh Thần, để từ đó đưa ra những giáo huấn cũng như những sáng kiến góp phần xây dựng Giáo Hội, trong đó Thiên Chúa sẽ tự hiến mình cho các tín hữu đã được giao cho ngài, theo gương mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi, và qua lời nói cũng như các bí tích”.[4]

2. QUAN HỆ CỦA TÁC VỤ GIÁM MỤC VỚI ĐỨC KITÔ VÀ CÁC TÔNG ĐỒ

Tác vụ giám mục xuất hiện trong Giáo Hội như một tác vụ của những người kế tục sự nghiệp của các Tông Đồ. Truyền thống không bao giờ bị gián đoạn của Giáo Hội xưa nay vẫn coi các giám mục là những người “thuộc về dòng dõi xuất phát từ các Tông Đồ”,[5] kế vị các Tông Đồ để làm mục tử của Giáo Hội.

Đành rằng chứng kiến Ngôi Lời nhập thể, chịu đóng đinh và sống lại thì chỉ có nhóm Mười Hai Tông Đồ. Nhưng thời kỳ từ lúc Chúa Kitô sống lại cho đến khi Người ngự đến trong vinh quang, sau khi các Tông Đồ qua đời, các giám mục chính là những người thừa kế sứ mạng ấy. Dựa trên đặc ân chỉ được ban một lần ấy (eph’aphax) cho các Tông Đồ, các giám mục do bí tích truyền chức sẽ có quyền hành hẳn hoi, để khi thi hành trong sự hiệp thông với đấng kế vị thánh Phêrô, các ngài “giúp làm cho khuôn mặt của Chúa Kitô được sống mãi trong thời gian, một khuôn mặt mà phải toàn thể Giáo Hội mới diễn tả được, bằng cách lưu ý đặc biệt hơn là làm sao cho các nét cơ bản và các điểm đặc biệt của khuôn mặt ấy, từng làm cho khuôn mặt ấy không giống với bất cứ khuôn mặt nào trên trần gian này, được bảo toàn nguyên vẹn”.[6]

Đã được đặt làm thừa tác viên làm chứng cho tính tông truyền của toàn thể Giáo Hội theo như Chúa muốn, lại được mặc lấy quyền năng của Thánh Thần Chúa Cha, được Thánh Thần nâng đỡ và hướng dẫn (“Spiritus principalis”), các giám mục sẽ kế vị các Tông Đồ không những trong khi thi hành quyền bính và trong “quyền thánh chức” (“sacra potestas”), mà còn kế vị các Tông Đồ trong lối sống tông đồ, trong những đau khổ của đời tông đồ khi loan báo và truyền bá Tin Mừng, trong khi yêu thương và nhân hậu chăm sóc các tín hữu được giao cho mình, trong khi bảo vệ những người yếu đuối, trong khi quan tâm không ngừng lo cho dân Chúa.

Đã được bí tích Truyền Chức sung mãn làm cho nên giống Đức Kitô một cách hết sức đặc biệt và được kêu gọi tham gia vào sứ mạng của Đức Kitô, hẳn các giám mục sẽ làm cho Đức Kitô hiện diện một cách bí tích. Chính vì thế, các ngài được gọi “làm các vị đại diện và làm các sứ giả của Đức Kitô”[7] tại Giáo Hội địa phương mà các ngài có nhiệm vụ nhân danh Chúa cai quản. Thật vậy, chính nhờ tác vụ của các giám mục mà Chúa Giêsu có thể tiếp tục loan báo Tin Mừng, tuôn đổ trên con người sự thánh thiện và ân sủng thông qua các bí tích đức tin, cũng như tiếp tục hướng dẫn dân Chúa trong cuộc hành trình tại thế này cho tới khi đạt tới hạnh phúc bất diệt.

3. QUAN HỆ CỦA TÁC VỤ GIÁM MỤC VỚI GIÁO HỘI

Như một món quà Thánh Thần ban cho Giáo Hội, các giám mục, cũng như mọi Kitô hữu khác, trước hết sẽ là con cái và phần tử của Giáo Hội. Chính từ Người Mẹ Thánh này, các giám mục đã tiếp nhận sự sống thần linh nơi bí tích Thánh Tẩy cũng như nhận những bài học đầu tiên về đức tin. Cùng với các tín hữu khác, các ngài được ban cho phẩm giá trác tuyệt là làm con cái Thiên Chúa, một phẩm giá mà các ngài phải sống trong sự hiệp thông, trong tinh thần huynh đệ và tri ân với các tín hữu khác. Nhưng mặt khác, song song với việc tiếp tục làm người tín hữu của Đức Kitô cùng với các tín hữu khác, do bí tích Truyền Chức sung mãn mà các ngài đã nhận được, các ngài còn là thầy dạy, người thánh hoá và mục tử của các tín hữu, nhân danh Đức Kitô và trong tư cách của Đức Kitô. Chắc chắn đây không phải là hai quan hệ đặt song song nhau, mà là một quan hệ hỗ tương rất thâm sâu: cả hai quan hệ đó đều nhằm giúp các ngài khai thác sự phong phú của một Đức Kitô duy nhất và chức tư tế duy nhất của Người.[8] Tuy nhiên, một giám mục sẽ trở thành “cha” chính là vì ngài đã làm “con” của Giáo Hội cách trọn vẹn.

Chính vì thế, như bản Kim chỉ nam “Ecclesiae imago” đã nhắc, các giám mục “phải kết hợp được nơi mình những đức tính của một người anh em lẫn một người cha, của một người môn đệ Đức Kitô lẫn một người làm thầy dạy đức tin, của một người con lẫn một người cha Giáo Hội, theo nghĩa nào đó, vì các ngài chính là thừa tác viên giúp cho các Kitô hữu được tái sinh một cách siêu nhiên”.[9] Người ta thường mô tả quan hệ giữa giám mục với Giáo Hội như quan hệ chồng vợ thiêng liêng. Thật ra, chỉ có Đức Kitô là vị Hôn Phu duy nhất của Giáo Hội. Nhưng trong tư cách là dấu chỉ bí tích của Đức Kitô Thủ Lãnh, các giám mục cũng là dấu chỉ bí tích của Đức Kitô Hôn Phu. Khi phản ảnh hình tượng người Hôn Phu ấy một cách rõ ràng và đặc biệt, các giám mục cũng phải trở thành người làm chứng đáng tin cho Đức Kitô trong cộng đoàn Giáo Hội. Một khi đã được mang lấy tình yêu phu phụ của Đấng Cứu Thế, các ngài cũng phải tìm cách làm cho “tình yêu của Đức Kitô được nảy nở trong Giáo Hội cả về chiều rộng, chiều dài, lẫn chiều cao và chiều sâu”, làm cho Giáo Hội ngập tràn “sự sung mãn của Thiên Chúa” (Ep 3,18 và tt).

Bằng cách này, các giám mục sẽ chu toàn nhiệm vụ chăn dắt đàn chiên của Chúa, như một lời đáp lại tình yêu hoặc như thi hành một “nhiệm vụ yêu thương” (“amoris officium”).[10] Có thế, các ngài mới làm cho Giáo Hội địa phương của mình nuôi lớn niềm hy vọng, vì thông qua sự phục vụ của mình, các ngài giúp Giáo Hội ấy tiếp tục tin tưởng rằng tình yêu mục tử của Đức Giêsu Kitô không bao giờ mất cả, một tình yêu mà các giám mục đang chia sẻ.

4. QUAN HỆ GIỮA GIÁM MỤC VỚI CÁC LINH MỤC CỦA MÌNH

Tác vụ của giám mục được xác định qua các tương quan với các ơn gọi khác nhau của các thành phần trong dân Chúa, nhất là với các linh mục, kể cả các linh mục dòng, và với linh mục đoàn (presbyterium) do các linh mục ấy làm thành trong lòng Giáo Hội địa phương của vị giám mục.[11] Các văn kiện của Công Đồng Vatican II[12] đã cho chúng ta có một cái nhìn mới về thực tại cũ xưa ấy là tập thể các linh mục, một đoàn thể hữu cơ do các linh mục nhập tịch trong một Giáo Hội địa phương hay để phục vụ một Giáo Hội địa phương làm nên, quy tụ chung quanh vị giám mục – để cai quản Giáo Hội như những mục tử. Sự liên kết sâu xa này giữa các linh mục và giám mục được căn cứ trên việc các ngài cùng tham dự vào một chức tư tế duy nhất và đồng nhất là chức tư tế của Đức Kitô và vào một sứ mạng tông đồ do chức tư tế ấy trao cho, dù ở những cấp độ khác nhau. Dựa vào bản chất và sứ mạng riêng của mình, có thể nói rằng trong cơ chế Giáo Hội, chức tư tế thừa tác đúng là một ân huệ do Thánh Thần ban cho, như một đoàn sủng, như “dấu chỉ nói lên thế ưu việt tuyệt đối và tính cho không của ân sủng mà Đức Kitô Phục Sinh đã ban cho Giáo Hội.”[13]

Công Đồng Vatican II đã mô tả các quan hệ hỗ tương giữa các giám mục và linh mục đoàn bằng những hình ảnh và thuật ngữ rất đa dạng. Công Đồng gọi giám mục là “cha” của linh mục đoàn[14] nhưng khi nói tới vai trò làm cha thiêng liêng ấy, Công Đồng lại thêm vào tư cách anh em, bạn hữu, cộng sự viên cần thiết, và cố vấn. Tuy nhiên, ta không thể quên rằng ơn bí tích có đến được với tập thể linh mục ấy là do qua tác vụ của giám mục, và ơn bí tích ấy được ban cho cũng là để các linh mục cộng tác trong thế tuỳ thuộc giám mục để thi hành sứ mạng tông đồ. Cũng chính nhờ ơn bí tích này mà linh mục đoàn được liên kết với các phận sự khác nhau của tác vụ giám mục. Nhờ dây liên kết vừa mang tính bí tích vừa có tính phẩm trật ấy, các linh mục sẽ đảm trách ở những mức độ khác nhau những bổn phận và trách nhiệm của giám mục, làm cho vị này hiện diện trong mỗi cộng đoàn, như những cộng sự viên và cố vấn cần thiết của giám mục, như người trợ thủ và khí cụ của giám mục.[15]

Quan hệ mang tính bí tích và phẩm trật giữa các thành viên của linh mục đoàn và giám mục được thấy qua một công việc mà lâu nay người ta hằng theo đuổi, đó là tìm cách xây dựng sự hiệp thông về mặt tình cảm lẫn hành động giữa giám mục và các thành viên linh mục đoàn, nhờ đó làm cho thái độ cả trong lẫn ngoài của giám mục đối với các linh mục của mình có được ý nghĩa và trọng lượng. “Được đặt làm gương sáng cho đoàn chiên” (Xem 1Pr 5,3), các giám mục sẽ làm gương sáng trước tiên cho các giáo sĩ của mình, gương sáng về đời sống cầu nguyện, về “cảm thức đối với Giáo Hội” (“sensus Ecclesiae”), về lòng nhiệt thành tông đồ, về sự tận tâm với công tác mục vụ nói chung và về thái độ cộng tác với mọi tín hữu. Ngoài ra, chính giám mục là người trước hết phải chịu mọi trách nhiệm về sự nên thánh của các linh mục cũng như về việc thường huấn cho các linh mục. Dựa vào những yêu cầu thiêng liêng này và thái độ của mỗi người, cũng như để đáp lại những đòi hỏi do tính hữu cơ của công tác mục vụ đặt ra và vì ích lợi của các tín hữu, các giám mục phải làm sao cho thừa tác vụ của các linh mục được thi hành một cách hết sức thích đáng.

Bên cạnh thái độ cần có đối với mỗi linh mục, các giám mục còn phải ý thức rằng mình đang có một linh mục đoàn giáo phận bên cạnh. Vì thế, giám mục không được quên – vun trồng tình huynh đệ nơi họ, nối kết họ với nhau từ trong bí tích và phát huy nơi họ tinh thần cộng tác để tiến hành công tác mục vụ chung cho hữu hiệu.

Thậm chí mỗi ngày giám mục phải dấn thân sao cho toàn thể linh mục đoàn ý thức và cảm nhận cách cụ thể là họ không bị gạt sang một bên hay bị bỏ rơi, nhưng luôn là chi thể và phần tử của “một tập thể linh mục duy nhất dù được phân bố cho những công việc khác nhau”.[16] Theo chiều hướng này, giám mục sẽ trân trọng Hội Đồng Linh Mục cũng như quý trọng tất cả mọi phương thế, chính thức hay không chính thức, để đối thoại và cộng tác với các linh mục, vì “biết rằng sự hiệp thông trong tình cảm lẫn hành động giữa giám mục và linh mục sẽ là nguồn động viên rất hữu hiệu cho sự hiệp thông trong Giáo Hội địa phương ở mọi cấp độ. Trong sự hiệp thông theo thừa tác vụ và phẩm trật ấy, bên cạnh các linh mục còn có các phó tế, được truyền chức không phải để làm linh mục mà để thi hành tác vụ. Khi phục vụ các mầu nhiệm của Thiên Chúa và của Giáo Hội như phục vụ Lời Chúa, phục vụ phụng vụ và phục vụ công cuộc bác ái, theo mức độ tham gia vào chức thánh, các phó tế đã được đưa vào trong một liên hệ mật thiết với giám mục và linh mục đoàn.[17] Vì thê, có thể nói giám mục là người chịu trách nhiệm đầu tiên trong việc phân định ơn gọi của các ứng viên,[18] trong việc đào tạo các ứng viên về tu đức, thần học và mục vụ. Giám mục cũng là người đầu tiên phải cứu xét những nhu cầu mục vụ, hoàn cảnh gia đình và nghề nghiệp của các ứng viên ấy, để giao phó các nhiệm vụ, sao cho sự có mặt của họ ăn khớp với đời sống của Giáo Hội địa phương và việc thường huấn dành cho họ không bị bỏ qua.

5. QUAN HỆ GIỮA TÁC VỤ GIÁM MỤC VỚI NHỮNG NGƯỜI TẬN HIẾN

Đời thánh hiến là một biểu hiện hết sức đặc biệt của Giáo Hội trong thân phận Hiền Thê của Ngôi Lời, thậm chí còn là một bộ phận đầy đủ của Giáo Hội, được đặt “ngay chính trung tâm Giáo Hội như một yếu tố quyết định phục vụ cho sứ mạng của Giáo Hội”[19] như Tông huấn “Vita consecrata” đã nhắc lại ngay từ đầu. Xuyên qua đời sống thánh hiến, ta thấy được phần nào ngay trong thế giới này những nét điển hình của một Đức Giêsu trinh khiết, nghèo khó và vâng phục, những nét đó trở nên cụ thể một cách hết sức tiêu biểu và có mặt thường xuyên dưới nhiều hình thức khác nhau, và chúng được coi như một giá trị tuyệt đối, có tính cánh chung. Toàn thể Giáo Hội đều tỏ lòng tri ân đối với Thiên Chúa Ba Ngôi vì đã tặng ban đời thánh hiến. Nhờ sự có mặt của đời tu mà ta có thể thấy sức sống của Giáo Hội không bị cạn kiệt trong cơ chế phẩm trật, như thể Giáo Hội chỉ bao gồm các thừa tác viên thánh và các tín hữu giáo dân, nhưng Giáo Hội còn là một cơ chế căn bản được tổ chức một cách rộng rãi và phong phú hơn, một cơ chế vừa mang tính định chế vừa mang tính đoàn sủng, do chính Đức Kitô muốn và bao gồm cả đời sống tu trì.[20]

Như vậy, đời thánh hiến là một ơn do Chúa Thánh Thần ban cho, mà ta không thể chối từ, và là một yếu tố làm nên sức sống và sự thánh thiện của Giáo Hội. Đời tu nhất thiết phải được đặt trong quan hệ có phẩm trật hẳn hoi đối với thừa tác vụ thánh, cách riêng với thừa tác vụ của Đức Giáo Hoàng và của các đức giám mục. Trong Tông huấn sau THĐGM, Đức Gioan Phaolô II đã nhắc lại mối dây hiệp thông đặc biệt giữa các hình thức của đời sống thánh hiến, cũng như các tu đoàn tông đồ với Đấng Kế Vị thánh Phêrô; các hình thức tu trì này có được tính phổ quát và trổi vượt trên các giáo phận là do mối dây hiệp thông ấy. Chính vì đời thánh hiến có liên hệ mật thiết với mầu nhiệm Giáo Hội và với thừa tác vụ của các giám mục, là những người liên kết với nhau chặt chẽ và hiệp thông theo phẩm trật với Đấng Kế Vị thánh Phêrô, nên toàn thể giám mục đoàn đều có trách nhiệm đối với đời tu. Như các ghi chú hướng dẫn trong văn kiện “Mutuae relationes” đã cho biết, Đức Kitô Thủ Lãnh đã giao phó cho các giám mục có liên kết với Đức Giáo Hoàng nhiệm vụ “chăm sóc các đoàn sủng tu trì, nhất là khi công tác mục vụ của các ngài tự nó vốn không thể chia năm sẻ bảy được, các ngài càng có trách nhiệm đối với sự hoàn thiện của tất cả đoàn chiên. Đến nỗi chính khi cổ võ đời tu, bảo vệ đời tu theo đúng với đặc tính riêng của nó là các giám mục đã chu toàn một bổn phận mục vụ chính hiệu”.[21]

Trong khuôn khổ của những chỉ dẫn nêu ra trong tài liệu này và trong khuôn khổ những điều đã được giới thiệu tại Đại Hội Thường Lệ lần thứ 9 của THĐGM và trong đường hướng giảng dạy của Đức Giáo Hoàng như đã được đề nghị trong Tông huấn “Vita consecrata”, ta thấy có một điểm luôn luôn được nhấn mạnh, đó là hãy mở rộng các quan hệ hỗ tương giữa các Hội Đồng Giám Mục, các Bề Trên Thượng Cấp và Hội Đồng của các vị này, nhằm tạo điều kiện cho các đoàn sủng được trở nên phong phú và mọi người hoạt động vì ích lợi của Giáo Hội hoàn cầu cũng như của Giáo Hội địa phương. Dĩ nhiên, khi làm những việc này, chúng ta phải tôn trọng trách nhiệm của các bên hữu quan và phải có ý thức chung là sự hiệp thông trong Giáo Hội hoàn cầu được thực hiện thế nào là qua sự hiệp thông trong các Giáo Hội địa phương.

Như Công Đồng đã dạy, vì các Giáo Hội địa phương được tạo nên “theo hình ảnh của Giáo Hội hoàn cầu, và chính trong các Giáo Hội địa phương này cũng như nhờ các Giáo Hội địa phương ấy mà Giáo Hội Công giáo, duy nhất và độc nhất đã được thành lập”,[22] nên những người tận hiến, dù ở đâu, cũng hãy sống ơn gọi của mình cho Giáo Hội hoàn cầu ngay trong lòng một Giáo Hội địa phương nhất định. Chính trong Giáo Hội địa phương ấy các người tu trì sẽ giúp cho Giáo Hội hoàn cầu được hiện diện và bảo đảm các vai trò quan trọng của Giáo Hội ấy được thể hiện. Đặc biệt, vì tính ngôn sứ là một yếu tố gắn chặt với đời thánh hiến, nên trong mỗi Giáo Hội địa phương, các tu sĩ chính là người loan báo Tin Mừng hy vọng mà họ đã sống, làm chứng mạnh mẽ cho thế ưu việt của Thiên Chúa trong đời sống Kitô hữu và làm chứng cho sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa trong thân phận đòn mỏng của con người.[23] Từ đó, để phát triển công việc mục vụ giáo phận cho hài hoà, cần có sự cộng tác giữa mỗi giám mục với những người tận hiến.[24]

Giáo Hội vô cùng biết ơn các giám mục, rải rác suốt dòng lịch sử Giáo Hội mãi cho tới ngày hôm nay, đã trân trọng đời thánh hiến như một ơn đặc biệt của Chúa Thánh Thể ban cho dân Chúa, tới mức đã đích thân đứng ra thành lập các gia đình tu trì, trong số đó có nhiều gia đình tu trì đến nay vẫn còn đang tích cực phục vụ Giáo Hội hoàn cầu và các Giáo Hội địa phương. Thêm vào đó, chính việc các giám mục dốc sức tìm cách giúp các tu hội trung thành với đoàn sủng của họ là một nguồn hy vọng cho chính các tu hội ấy, đặc biệt những tu hội đang gặp nhiều khó khăn.

6. QUAN HỆ GIỮA TÁC VỤ GIÁM MỤC VỚI CÁC TÍN HỮU GIÁO DÂN

Công Đồng Vatican II, Đại Hội Thường Lệ của THĐGM năm 1987 và Tông huấn sau đó của Đức Gioan Phaolô II là “Christifideles laici”, đã giúp làm sáng tỏ ơn gọi và sứ mạng của người tín hữu giáo dân trong Giáo Hội và trong thế giới.[25] Nhờ phẩm giá nhận được qua phép rửa, khiến họ được tham dự vào chức tư tế của Đức Kitô, cũng như nhờ được ơn ban đặc biệt của Thánh Thần, mà họ có được một chỗ đứng thích đáng trong Thân Thể Giáo Hội, thúc đẩy họ tuỳ theo cách thức riêng của mình tham gia vào sứ mạng cứu độ, mà theo lệnh Đức Kitô, Giáo Hội đang cố gắng bảo đảm thực hiện mãi cho tới ngày tận thế. Riêng đối với các giáo dân, Giáo Hội nhìn nhận và đề cao tính trần thế trong phần lớn sinh hoạt của họ rất có giá trị cứu độ. Thật vậy, người giáo dân thể hiện những đặc điểm riêng của người Kitô hữu trong rất nhiều lãnh vực, như cuộc sống và gia đình, chính trị, nghề nghiệp và xã hội, kinh tế, văn hoá, khoa học, nghệ thuật, đời sống quốc tế và các phương tiện truyền thông đại chúng.

Trong khi thi hành khá nhiều công việc như thế, người giáo dân được mời gọi hãy đưa ra một lời chứng hết sức trong sáng về đức tin của mình vào Đức Giêsu Kitô, kết hợp với các tài năng và khả năng chuyên môn mà mình đã có được. Khi dấn thân vào các thực tại trần thế, người giáo dân, cũng như mọi Kitô hữu khác, được kêu mời hãy trả lời về niềm hy vọng đối thần của mình (x. 1Pr 3,15) và hãy quan tâm tới các sinh hoạt gắn liền với thế giới hôm nay, chỉ vì khát khao mong đợi một “đất mới”.[26]

Vì chỗ đứng của mình trong thế giới, người giáo dân có thể gây ảnh hưởng lớn trên nền văn hoá, bằng cách mở rộng các viễn tượng và chân trời hy vọng của nền văn hoá ấy. Bằng cách đó, họ cũng đã góp phần đặc biệt vào công cuộc phúc âm hoá, và điều này càng cần thiết hơn, khi trong thời đại hôm nay, người ta vẫn còn chứng kiến thảm kịch chia cắt Tin Mừng với văn hoá. Ngoài ra, trong lãnh vực truyền thông, có ảnh hưởng sâu đậm tới tâm thức con người, người giáo dân cũng có một trách nhiệm đặc biệt, nhất là để phổ biến cách đúng đắn các giá trị đạo đức.

Mặc dù do ơn gọi, phần đông người giáo dân đều làm các việc trần thế, nhưng cũng đừng quên rằng họ thuộc về một cộng đoàn Giáo Hội duy nhất, trong đó họ là một bộ phận đông đảo xét về số lượng. Sau Công Đồng Vatican II, chúng ta đã sung sướng chứng kiến nhiều hình thức mới. Qua đó các giáo dân nam nữ tham gia một cách có trách nhiệm vào đời sống của các cộng đoàn giáo phận và giáo xứ. Chẳng hạn họ có mặt trong các hội đồng mục vụ, nắm giữ một vai trò ngày càng lớn trong các công tác phục vụ khác nhau, như hướng dẫn phụng vụ và huấn giáo, tham gia giảng dạy đạo Công giáo ở các trường, v.v…

Một số giáo dân còn chấp nhận đảm trách các việc vừa kể một cách thường xuyên và đôi khi suốt đời. Sự cộng tác ấy của các giáo dân chắc hẳn hết sức quý báu và cần thiết để đáp ứng những yêu cầu của công cuộc “tân phúc âm hoá”, nhất là ở những nơi không có đủ số thừa tác viên được truyền chức.

Hiện tượng liên kết thành hiệp hội được phát triển rộng rãi cũng là một nguồn lợi rất lớn đối với Giáo Hội sau Công Đồng Vatican II. Bên cạnh các hiệp hội kỳ cựu, các hiệp hội mới mẻ này, với những nguyện vọng khác nhau, đối với nhiều giáo dân, chính là một nguồn nâng đỡ không gì có thể thay thế được, giúp phát triển đời sống Kitô hữu và góp phần làm cho toàn thể Giáo Hội lớn mạnh. Tông huấn sau THĐGM mang tên “Christifideles laici” đã nhắc nhở rằng, dù được phép có tình trạng đa nguyên, nhưng các hiệp hội, đoàn thể và phong trào ấy vẫn phải phục vụ một mục tiêu chung là tham gia một cách có trách nhiệm vào sứ mạng Giáo Hội, tức là đem ánh sáng Tin Mừng đến cho mọi người.[27]

Một trong các công tác mục vụ của người giám mục là tiếp nhận và cổ võ sự bổ sung giữa các hiệp hội xuất phát từ những nguồn cảm hứng khác nhau, theo dõi thái độ ứng xử của các hiệp hội, chăm lo đào tạo người hướng dẫn về mặt thần học và tu đức, cũng như lo sao cho tất cả mọi người hội nhập một cách tốt đẹp vào cộng đoàn giáo phận.

Là dấu chỉ của Thiên Chúa mời gọi ta hy vọng (x. Ep 4,4), các giám mục phải trở thành dấu chỉ ấy trước hết cho các giáo dân, vì giáo dân là những người bị đẩy vào chính tâm điểm của rất nhiều vấn đề trên thế giới, cũng như của những khó khăn trong đời sống hằng ngày, nên thường rơi vào nỗi hoang mang và đau khổ. Cũng có khi chính vì những lựa chọn đặc thù theo Kitô giáo của họ mà họ cảm thấy bị cô lập và thực sự bị cô lập giữa bao nhiêu người. Trong những hoàn cảnh ấy mà có sự hiện diện như người mục tử của giám mục và linh mục đoàn, chắc hẳn họ sẽ cảm thấy được nâng đỡ để tiếp tục làm những Kitô hữu tràn trề hy vọng và để sống trong tin tưởng rằng Chúa luôn luôn ở kề bên con cái Người.

Ngoài ra, cũng không phải là hiếm hoi khi một số giáo dân gặp nhiều khó khăn đã bị lôi cuốn “trốn tránh thế gian” và biến những xác tín tôn giáo của mình thành những chuyện tư riêng. Cũng chính vì những lý do đó, giáo dân cần phải tìm được nơi giám mục và hàng linh mục một điểm tựa vững chắc để bảo đảm sự thống nhất đời sống và sự kiên cường trong đức tin. Sau cùng, khi thi hành công tác mục vụ giám mục cần quan tâm đặc biệt tới những giáo dân đang mắc sai lầm hay bị “xa tránh”, bằng cách dựa vào sự giúp đỡ của các giáo dân khác để tìm kiếm những con người ấy và giúp họ tham gia tích cực trở lại trong đời sống Giáo Hội.

Suy nghĩ về người tín hữu giáo dân cũng đồng thời phải nói tới nhu cầu họ cần được đào tạo thích đáng. Đàng khác, rõ ràng là các giám mục phải quan tâm, đưa tay nâng đỡ, nhất là nâng đỡ về mặt thiêng liêng, những ai đã cộng tác vào sứ mạng của Giáo Hội một cách sâu sát. Thế nên, một nhu cầu khẩn cấp được đặt ra là phải làm sao cho người giáo dân, theo một chương trình huấn giáo có hệ thống, biết tiếp cận Lời Chúa được trình bày trong Kinh Thánh và được Huấn Quyền Giáo Hội giải thích một cách đúng đắn.

Khi đào tạo người tín hữu giáo dân, cần phải dành một chỗ đặc biệt cho môn học thuyết xã hội của Giáo Hội, để họ được soi sáng chỉ dẫn và được khích lệ khi hành động, theo những nhu cầu cấp bách của công lý và công ích mà họ có nhiệm vụ phải góp phần kiến tạo, qua những công trình và việc làm khẩn cấp của họ mà xã hội yêu cầu. Quan trọng không kém là việc đào tạo các người trẻ sống đời sống hôn nhân và gia đình, bằng cách dựa vào ý định của Chúa trên hôn nhân và gia đình để củng cố thêm những gì mình đang hy vọng và chờ đợi bằng một tình yêu vừa sâu xa vừa đích thực. Công việc họ làm càng do đức ái thúc đẩy và càng diễn tả sự thật của bậc sống giáo dân, thì họ càng chứng tỏ mình đang phục vụ cho Nước Chúa sớm ngự đến.

7. QUAN HỆ CỦA GIÁM MỤC VỚI GIÁM MỤC ĐOÀN VÀ THỦ LÃNH GIÁM MỤC ĐOÀN

Được sai đi nhân danh Đức Kitô để làm mục tử chăn dắt một Giáo Hội địa phương, giám mục có nhiệm vụ chăm sóc phần dân Chúa đã được giao cho mình và giúp họ tăng trưởng thành một cộng đoàn hiệp thông trong Chúa Thánh Thần, dựa vào Tin Mừng và bí tích Thánh Thể. Chính vì thế, trong tư cách cá nhân, nhiệm vụ của giám mục là làm nguyên lý và nền tảng hữu hình cho sự hiệp nhất trong Giáo Hội địa phương đã được giao cho mình (hiệp nhất trong đức tin, trong các bí tích và trong sự cai quản), nghĩa là vừa đại diện, vừa cai quản Giáo Hội ấy dựa vào những quyền năng đã được ban cho.[28]

Tuy nhiên, mỗi giám mục là mục tử của một Giáo Hội địa phương được là vì ngài vốn là, thành viên của Giám Mục Đoàn. Mỗi giám mục đều nằm trong Giám Mục Đoàn là do chính sự tấn phong của họ và do có hiệp thông theo phẩm trật với thủ lãnh và với các thành phần khác trong Giám Mục Đoàn.[29] Tất cả những điều này sẽ để lại cho thừa tác vụ giám mục những hệ quả rất quan trọng mà sau đây ta cần xem xét, dù chỉ theo một cách tổng hợp thôi.

Hệ quả thứ nhất là một giám mục không bao giờ cô độc. Điều này đúng không phải chỉ vì xét tới vị trí của ngài trong Giáo Hội địa phương của mình như đã nói, mà còn vì vị trí của ngài trong Giáo Hội hoàn cầu: do chính bản chất của chức giám mục, vốn chỉ có một và không thể phân chia (“uno et indiviso”),[30] mà ngài được liên kết với toàn thể Giám Mục Đoàn, tức là đoàn thể kế vị Tông Đồ Đoàn.

Chính vì lẽ đó, mỗi giám mục phải vừa liên kết với Giáo Hội địa phương vừa quan hệ với Giáo Hội hoàn cầu. Mỗi giám mục là nguyên lý và là nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất trong Giáo Hội địa phương của mình, nhưng ngài cũng là dây liên kết hữu hình giữa Giáo Hội mình với Giáo Hội hoàn cầu. Thế nên, dù ở bốn phương trời thế giới, mà vẫn bảo vệ được sự hiệp thông phẩm trật với vị thủ lãnh và các thành viên trong Giám Mục Đoàn, thì các giám mục vẫn có thể bảo đảm cho tính công giáo của Giáo Hội được tồn tại và hiện hữu cụ thể;[31] các ngài cũng đồng thời làm cho Giáo Hội địa phương được giao cho mình có được nét công giáo ấy. Như thế, mỗi giám mục chẳng khác nào một điểm nối kết giữa Giáo Hội địa phương của mình với Giáo Hội hoàn cầu, và là một dấu chỉ hữu hình cho biết Giáo Hội duy nhất của Đức Kitô đang hiện diện trong chính Giáo Hội địa phương của mình. Khi hiệp thông với các Giáo Hội, các giám mục vừa đại diện cho Giáo Hội địa phương của mình vừa đại diện cho sự hiệp thông giữa các Giáo Hội ngay trong chính Giáo Hội riêng của mình. Thật vậy, qua thừa tác vụ giám mục, người ta nhận ra rằng các thành phần của Giáo Hội (“portiones Ecclesiae”) đang sống tính toàn thể của Giáo Hội Duy Nhất và Thánh Thiện, và tính toàn thể của Giáo Hội Công Giáo và Tông Truyền đang có mặt trong các thành phần Giáo Hội ấy.[32]

Hệ luận thứ hai mà ta cần phải dừng lại suy nghĩ, đó chính là nhờ có sự đoàn kết trong tập thể giám mục hay chính nhờ có sự hiệp thông huynh đệ trong đức ái, hoặc như Công Đồng nói, chính nhờ có sự thân ái trong tập thể giám mục mà mỗi giám mục, do chính Đức Kitô đề ra và truyền dạy, đều phải quan tâm lo lắng cho toàn thể Giáo Hội và cho các Giáo Hội địa phương khác, đặc biệt “những miền Lời Chúa chưa được loan truyền hoặc những nơi vì số linh mục quá ít mà các tín hữu đang có nguy cơ sống xa các giới răn hướng dẫn đời sống Kitô hữu, thậm chí có nguy cơ đánh mất đức tin”.[33]

Đàng khác nếu những ơn Chúa ban, để mỗi giám mục dựa vào đó mà xây dựng Giáo Hội địa phương của mình – tức là Tin Mừng và bí tích Thánh Thể, đều giống nhau, thì đó là để không những nhằm giúp xây dựng mỗi Giáo Hội địa phương thành nơi quy tụ mọi người trong Chúa Thánh Thần, mà còn giúp mở rộng mỗi Giáo Hội ấy ra hiệp thông với các Giáo Hội khác. Thật vậy, việc loan báo Tin Mừng vốn có tính phổ quát; do ý Chúa muốn, phải loan báo Tin Mừng cho hết mọi người và trước sau vẫn vậy trong thời gian. Ngoài ra, do chính bản chất của mình và cũng giống như mọi hành vi phụng vụ khác, cử hành Thánh Thể phải là một việc của toàn thể Giáo Hội, thuộc về toàn Thân Thể Giáo Hội, biểu hiện và bao hàm toàn Thân Thể Giáo Hội.[34] Từ đó, đã là người kế vị các tông đồ cách hợp pháp và là thành viên của Giám Mục Đoàn, mỗi giám mục cũng phải chịu trách nhiệm một cách nào đó về toàn thể Giáo Hội (“sponsor Ecclesiae”).[35]

Nếu vậy, rõ ràng là khi thi hành tác vụ của mình, mỗi giám mục trong Giám Mục Đoàn cần phải gặp gỡ đức giám mục Rôma và hiệp thông với ngài cách linh hoạt và năng động như hiệp thông với Đấng Kế Vị thánh Phêrô cũng là thủ lãnh Giám Mục Đoàn, cũng như hiệp thông với tất cả anh em giám mục khác trên toàn thế giới.

Một cách riêng tư cá nhân cũng như kết hợp với các anh em giám mục khác và phối hợp với toàn thể Giáo Hội, các giám mục sẽ nhìn Ngai Toà Phêrô như nguyên lý và nền tảng hữu hình của sự hiệp nhất trong đức tin và của sự hiệp thông. Hiệp thông theo thứ tự phẩm trật với giám mục Rôma cũng có nghĩa là, khi giảng dạy trong giáo phận mình, các giám mục phải tỏ ra trung thành gắn bó với giáo huấn của Đức Giáo Hoàng, kể cả khi Đức Giáo Hoàng giảng dạy với Quyền Giáo Huấn thông thường. Các giám mục cũng phải phổ biến giáo huấn ấy bằng những cách nào thích hợp nhất, rồi bằng cách này hay cách khác, một cách cá nhân hay thông qua Hội Đồng Giám Mục, góp phần thêm vào giáo huấn ấy, và nếu cần thì đứng ra bênh vực.

Một hình thức đặc biệt để cộng tác với Đức Giáo Hoàng là tham gia THĐGM vì đó là nơi các giám mục sẽ có dịp trao đổi thông tin và kiến nghị một cách rất kết quả, cũng như dựa vào Tin Mừng và giáo lý Giáo Hội để xác định những đường hướng chung. Những đường hướng này, một khi được Đấng Kế vị thánh Phêrô phê chuẩn, sẽ tạo nhiều thuận lợi cho chính các Giáo Hội địa phương. Bằng cách này, toàn thể Giáo Hội sẽ được nâng đỡ một cách hữu hiệu để duy trì sự hiệp thông mà vẫn tôn trọng sự đa dạng trong văn hoá và hoàn cảnh. Đây cũng là mục tiêu chung qua các cuộc thăm viếng “ad limina” của các giám mục.

Riêng về việc cộng tác giữa các giám mục với nhau, Công Đồng Vatican II đã tỏ ý hết sức ao ước được thấy một cơ chế đáng kính là các Công Đồng miền lấy lại sinh lực,[36] dù Công Đồng không quên lưu ý tầm ích lợi của các Hội Đồng Giám Mục mới được thành lập.[37] Các Hội Đồng Giám Mục này tiếp thu di sản chung mà Giáo Hội đã nhận được từ nơi Chúa qua trung gian mặc khải. Các hội đồng ấy một đàng không bao giờ quên tính phổ quát của Giáo Hội, được bảo đảm nhờ Ngai Tòa Thánh Phêrô, nhưng đàng khác sẽ ra sức làm cho di sản ấy được thích nghi với các dân tộc mà mình đang cùng chung sống.

Một điểm nữa để mỗi Hội Đồng Giám Mục tham chiếu khi hoạt động là danh tánh và trách nhiệm riêng của mỗi giám mục trong Hội Đồng, cũng như sự hiệp thông để các giám mục nâng đỡ nhau khi thực hiện công cuộc phúc âm hoá và khi giải quyết thành công các vấn đề mục vụ chung. Lời giảng dạy có đáng tin không, công tác mục vụ có hữu hiệu không và sự hiệp thông của mỗi giám mục, được mời gọi phục vụ ngay giữa hàng ngũ các tín hữu của mình có thành công không,… tất cả những điều đó tuỳ thuộc vào lời chứng chung của các giám mục trong mỗi Hội Đồng.

Tuy nhiên, quan hệ hỗ tương giữa các giám mục vượt xa những lần gặp gỡ theo định chế ấy. Một khi ý thức sống động về tính tập đoàn của chức giám mục, các ngài hẳn sẽ bị thôi thúc tạo ra nhiều hình thức diễn tả tình huynh đệ bí tích, từ việc tiếp đón, trân trọng nhau cho đến những cách bày tỏ đức ái, cách riêng trong phạm vi giáo tĩnh hay giáo miền. Kim chỉ nam “Ecclesiae imago” cũng nhắc tới nhiều hình thức cộng tác khác, như giúp đỡ nhau bằng cách trao đổi các linh mục đã đồng ý với việc này, thống nhất các chủng viện và những công tác tông đồ khác nếu thấy cần.[38]

Ngoài ra, sự hiệp thông giữa các giám mục còn được biểu lộ khi tại một Giáo Hội địa phương nào đó, vì một số nhu cầu đặc biệt, người ta thấy cần có một giám mục phó hay một giám mục phụ tá. Đối với các giám mục này, được bổ nhiệm trong một số trường hợp để giúp đỡ giám mục giáo phận phục vụ Giáo Hội địa phương, Công Đồng lưu ý rằng vì là những cộng tác viên trước hết, các giám mục này phải vâng phục và tôn trọng giám mục giáo phận, cũng như giám mục giáo phận phải trân trọng và yêu thương họ như anh em của mình.[39]

Sau cùng, các giám mục phải dành sự quan tâm đặc biệt và lo lắng cách riêng cho các anh em giám mục đang có nhu cầu nhiều hơn, nhất là những vị đang phải đau khổ vì bị cô lập, hiểu lầm và cô đơn, cũng như những vị già nua và bệnh tật đã xin Đức Giáo Hoàng cho từ chức vì ích lợi của chính Giáo Hội địa phương và theo đúng kỷ luật hiện hành của Giáo Hội, nay không còn cai quản giáo phận nữa. Không kề các vị ấy vẫn luôn luôn nằm trong Giám Mục Đoàn, các ngài còn đóng góp được nhiều cho Giáo Hội qua việc cầu nguyện, kinh nghiệm và ý kiến.

Như thế, mỗi vị giám mục đều sẽ tìm được trong chính Giám Mục Đoàn, do Đức Giáo Hoàng và các anh em giám mục góp phần xây dựng, không những sự nâng đỡ cần thiết để thi hành sứ mạng, mà còn tìm được nơi đó thức ăn bổ dưỡng để nuôi hy vọng, hầu có thể đương đầu một cách can đảm với các vấn đề có thể nảy sinh trong đời sống Giáo Hội và có thể nâng đỡ niềm hy vọng của các tín hữu đã được giao cho mình coi sóc.

8. ĐỂ PHỤC VỤ SỰ HIỆP THÔNG HẦU NUÔI NIỀM HY VỌNG

Chính khi sống giữa vô số quan hệ vừa kể, được kín múc từ chính sự hiệp thông mầu nhiệm của Thiên Chúa Ba Ngôi, nhờ đó sự hiệp thông giữa mọi tín hữu trong Giáo Hội địa phương được xây dựng, bất kể họ thuộc về cấp bậc nào, được ban cho đoàn sủng nào và đã khai sinh ra những tác vụ nào và những mối quan hệ này càng phát triển rộng nhờ các giám mục và các Giáo Hội hiệp thông với nhau, ta mới nhìn thấy được bản chất của giám mục với tất cả sự phong phú của một con người hiệp thông, với đông đảo tín hữu vây quanh tạo nên được sự hiệp nhất cách cụ thể. Tác vụ xây dựng sự hiệp thông này của các giám mục thực hiện được là nhờ niềm hy vọng; chính tác vụ này là nguồn tiếp tế hằng ngày cho mỗi giám mục dấn thân xây dựng Giáo Hội đã được giao phó cho mình thành một cộng đoàn đức tin và đức ái giữa loài người. Đức cậy đối thần ấy của người giám mục đặt cơ sở trên Đức Kitô, để rồi được thông truyền cho phần dân Chúa mà ngài có trách nhiệm, và được tiếp sức thêm nhờ sự hiệp thông với Đức Giáo Hoàng và các giám mục khác. Đến lượt mình, sự hiệp thông sẽ đưa ta tới chỗ biết hy vọng, vì mọi lời nói dựa trên bằng chứng của sự hiệp thông gửi tới cho mỗi người sẽ là một thông điệp hy vọng gởi cho người ấy, bởi chưng như thánh tông đồ Phaolô đã viết, đức ái là nhân đức biết “hy vọng tất cả” (1Cr 13,7). Để chống lại những men phân hoá đang đe dọa sự sống còn của Giáo Hội và thế giới, các giám mục sẽ làm tôi tớ, làm người xây dựng, người cổ võ, người bảo lãnh, người bênh vực và người giữ gìn cho một Giáo Hội hiệp thông, vì chỉ có Giáo Hội ấy mới là mầm mống, là nguyên lý và là men kiến tạo sự hiệp thông giữa nhân loại.

Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 1 (Tháng 12 năm 1998)